Trang chủ Nghiên cứu Tính bất nhị trong văn phong của Tuệ Trung Thượng Sĩ (Phần...

Tính bất nhị trong văn phong của Tuệ Trung Thượng Sĩ (Phần 1: Chẳng chay cũng chẳng mặn)

595

Chân Hiền Tâm

Giới thiệu

Tuệ Trung Thượng Sĩ là anh cả của hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Thượng Sĩ khí lượng uyên thâm, phong thần nhàn nhã. Ngày còn nhỏ đã nổi tiếng về bẩm chất tinh thượng thuần hậu. Khi được cử trấn giữ đất Hồng Lộ, hai phen chống ngăn thành công quân Bắc xâm lược. Phật hoàng Trần Nhân Tông ca ngợi “Đó là vì người vậy”.
Thượng Sĩ mến mộ cửa không khi còn để chỏm. Lúc đến tham vấn Thiền sư Tiêu Dao ở tinh xá Phước Đường, do lãnh hội được yếu chỉ nên dốc lòng thờ Thiền sư làm thầy. Sau Thượng Sĩ lui về ấp Tịnh Bang, hàng ngày lấy thiền duyệt làm vui, thuận người mà làm hưng thịnh hạt giống Chánh pháp, tùy cơ mà có phương tiện dạy bảo, lúc hiện, lúc ẩn, giúp người trụ tâm.

Vua Thánh Tông nghe danh đã lâu, liền cho mời vào kinh thành. Thấy lời lẽ đối đáp thoát tục lại tương hợp, nhân đó mà kết nghĩa, tôn Thượng Sĩ làm sư huynh. Danh hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ được ban tặng từ đó.

Chẳng chay cũng chẳng mặn

Một lần, Thượng Sĩ vào cung thăm thái hậu. Bà mở tiệc thịnh soạn chiêu đãi. Ông gắp thịt ăn. Thái hậu lấy làm lạ hỏi: “Anh tu thiền mà ăn thịt, đâu thể thành Phật”. Chỉ vì một lúc ăn thịt mà không thể thành Phật thì con bò đã thành Phật từ lâu. Nhưng bò là bò mà Phật là Phật. Bò cũng có tánh Phật, nhưng hóa và báo dụng của Phật bò không sử dụng được. Suốt ngày gặm cỏ rồi lên đường vào lò mổ, tiếp nối trùng trùng kiếp chúng sinh đọa đày. Việc đó cho thấy ăn chay không phải là điều kiện tiên quyết trong vấn đề thành Phật. Không tiên quyết thì không ăn chay vẫn có thể thành Phật. Nhưng sao kinh luận lại khuyến cáo người tu phải ăn chay, giới thọ của Bồ-tát cũng nói đến ăn chay? Là để… đối trị cái tập ăn mặn.

Đối trị là từ được dùng khi có tật bệnh xuất hiện. Tức có bệnh mới có thuốc. Dùng thuốc đối trị bệnh. Có tham, sân, si mới nói đến bố thí, trì giới, nhẫn nhục v.v… để dùng đó đối trị. Không bệnh thì không cần đến thuốc đối trị. Tức không bệnh thì không nói đến từ đối trị. Chúng sinh huân tập việc ăn thịt quá sâu, làm người ăn thịt, làm súc sinh ăn thịt, làm ngạ quỷ cũng ăn thịt.1 Huân tập nhiều đến nỗi ăn uống trở thành thứ không thể thiếu khi có đời sống chúng sinh ở cõi Ta-bà. Xuất hiện ở Ta-bà là phải ăn mới tồn tại.2 Trong kinh Tử nhục3, Phật nói “Này các Tỷ-kheo! Có bốn loại thức ăn này đưa đến sự tồn tại hay chấp thủ tái sinh cho các loài hữu tình hay chúng sinh. Thế nào là bốn? Đoàn thực hoặc thô hoặc tế, xúc thực, tư niệm thực và thức thực. Này các Tỷ-kheo! Bốn loại thức ăn này đưa đến sự tồn tại hay chấp thủ tái sinh cho loài hữu tình…”. Đoàn thực, chỉ cho loại thức ăn mà hiện nay con người đang dùng, bao gồm cả chay và mặn. Đoàn thực chỉ có ở cõi Dục. Ăn uống được huân tập sâu dày từ kiếp này sang kiếp khác và trở thành tập nghiệp của con người, chính là Tập nói trong Tứ đế. Tập tạo ra lực nghiệp. Lực nghiệp là thứ khiến chúng sinh bị trói buộc và lôi chúng sinh luân hồi sinh tử triền miên, nên nói “đưa đến chấp thủ tái sinh”. Tập khiến chấp xuất hiện và có sự tái sinh. Cho nên, muốn giải thoát, muốn chấm dứt luân hồi sinh tử thì phải phá trừ cho được những gì thuộc tập nghiệp. Không chỉ có tập nghiệp thuộc ăn uống mà còn các tập thuộc ngủ nghỉ, giao tiếp v.v… là xúc thực, tư niệm thực và thức thực. Song chuyển thẳng từ việc ăn thịt sang việc không ăn là điều gần như không ai làm được. Không có thiền duyệt sâu xa trợ giúp, khó mà thực hiện được việc đó, nên trước phải dùng chay đối trị mặn. Đó là lý do kinh luận khuyến cáo người tu nên ăn chay. Ngoài việc mở rộng lòng từ, dứt dần những oan nghiệt từ việc ăn thịt, ăn chay còn giúp phá trừ tập ăn mặn, giảm dần tham đắm trong việc ăn uống.

Thái hậu là mẫu người đại diện cho hầu hết những kẻ có tâm thiện lương và chánh kiến. Không thể bảo tu là ở tâm, còn trên sự thì tham, sân, si không trừ, dục vị buông tuồng, cứ để tập nghiệp trói buộc lấy mình. Mọi thứ phải được thể hiện thành hành động. Nếu tâm thật tu, tham, sân, si phải giảm. Ăn chay không phải là tất cả trong việc tu hành, nhưng nó là duyên giúp loại bỏ phần nào dục tham. Có điều, thứ gì trở thành quy định hay tục lệ, không khéo, lâu dần sẽ thành một loại định kiến với cái tâm dễ trụ của mình. Khi đã rơi vào định kiến, dù là định kiến phù hợp với kinh luận, thì tâm chẳng còn vô trụ, chẳng thể thể nhập chân tánh vô trụ. Thảy đều do chấp. Chấp là do tập. Hòa thượng Trúc Lâm nói “Anh tu thiền mà ăn thịt, đâu được thành Phật” là câu nói của người thường, còn chấp”4.

Tâm chưa trung đạo nên cái nhìn hay vướng vào lối mòn nề nếp, không thể tùy duyên nhận định sự việc hiện tại một cách chính xác và vượt thoát. Nghĩa là, chúng ta đối với sự việc xảy ra trong một lúc, thường quên mất mặt nhân duyên của pháp. Pháp nhân duyên, là duyên lúc đó như vậy thì hiện pháp như vậy, trong những duyên khác, pháp không hẳn vậy nữa. Chúng ta thường không dụng được cái nhìn đó mà thường vận hành tư tưởng theo kiểu người đời, lấy tướng hiện ra trong một lúc làm tánh của sự vật trong mọi lúc, mọi nơi. Bởi thế, tướng đó trở thành thường trụ, bất biến, bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu tướng đó cũng hiện tiền. Đó là một cái nhìn phiến diện nếu không nói là sai lầm.

Một lần, nhìn thấy người phụ nữ nói gì đứa bé cũng không nghe, tôi liền có suy nghĩ, “Người phụ nữ này không có lực với đứa bé”. Song đó là một tư tưởng sai lầm. Bởi thực tế, chỉ người phụ nữ đó mới có năng lực với đứa bé trong mọi sinh hoạt của nó, còn lại không ai làm gì được. Chỉ là trong cái duyên của tôi, tôi lại chỉ chứng kiến được một phần của sự việc, bằng hoạt tướng ngược lại. Dùng tướng của một việc làm tánh cho toàn bộ các sự việc khác là một sai lầm. Song đó lại là cái thấy đa phần người đời thường vướng. Khổ nạn tai họa mới xảy ra.

Thái hậu cũng không tránh được cái nhìn như thế, lấy tướng trong một lúc làm tánh thường trụ của vạn pháp, chẳng hiểu chay mặn chẳng còn là tập với Thượng Sĩ. Chẳng phải tập, nên nó không mang tính thường hằng trói buộc, chỉ là đủ duyên thì hiện, hết duyên liền không, không để lại dấu vết.

Ăn chay không phải là cứu cánh của việc tu hành. Nó chỉ là pháp dùng đối trị khi có tật bệnh xuất hiện. Tật bệnh nói đây là tập ăn thịt. Đây nói tập ăn thịt, không nói ăn thịt. Ăn thịt không lỗi nếu nó không được huân thành tập nghiệp, là gốc của trói buộc và khổ đau. Thiền sư Duy Nghiễm nói: “Trồng thì không ngăn ngươi trồng, nhưng chớ cho mọc rễ5. Ăn thịt thì ăn thịt mà đừng huân nó thành tập. Muốn biết chay mặn có thành tập với mình không thì dùng pháp nghịch nó mà kiểm nghiệm. Mặn mà thành tập thì không dùng được chay, ăn chay sinh bệnh hay thấy lạt lẽo, thèm và nhớ đồ mặn. Chay nếu thành tập thì không thể ăn thịt cá, thấy đồ mặn là dội ngược, tanh tao muốn nôn v.v… Nói chung, thứ gì đã thành tập với mình thì ngược với nó, sẽ xuất hiện sự chướng ngại. Ngăn dứt nó, mình chịu không nổi, mình thấy khó chịu, trống vắng, thèm thuồng v.v… Có một lực nào đó lôi mình phải thực hiện những gì thuộc tập nghiệp của mình. Chính vì lực này mà muốn dừng được tập nghiệp phải dùng pháp đối trị. Pháp đối trị đơn giản nhất là “không những việc đó” cho tới khi những việc đó không còn là thói quen của mình. Đó là lúc lực nghiệp bị đánh bật. Do quá trình hàng phục tập nghiệp này mà xuất hiện các pháp đối trị như nhẫn nhục, thiền định v.v… Chỉ là pháp đối trị nên khi tập nghiệp hết, pháp cũng phải buông. Nếu cố chấp không buông, pháp đối trị sẽ thành tập. Tập tốt tuy có lực dẫn chúng sinh vào cảnh giới tốt, nhưng cái gọi là giải thoát hay thể nhập chân tánh vô trụ thì không thể.

Đứng trên mặt giáo hóa mà nói, khi bị tập nghiệp trói buộc, khó có thể tự tại trong việc dùng pháp độ người. Vì căn nghiệp của chúng sinh muôn hình muôn vẻ, có khi phải dùng đến pháp nghịch giới mới giáo hóa được. Vì thế tập xấu hết rồi, pháp đối trị cũng phải buông, không được thủ chấp. Kinh Kim cang nói: “Pháp còn nên xả huống là phi pháp”.

Với cái nhìn của kinh Thắng Man, một bộ kinh đào sâu về việc thể nhập chân tánh, chỉ ra những chướng ngại khiến hành giả không thể nhập được chân tánh, thì các tùy phiền não không chỉ là pháp làm chướng tâm, mà các pháp như chỉ, quán, tịnh lự, Tam-ma-bát-để, gia hạnh, trí, quả, chứng lực, vô úy v.v… đều được coi là chướng phiền não nếu chúng được chấp thủ. Nền tảng của sự chấp thủ này là Vô minh trụ địa, là Vô minh nghiệp tướng mà luận Đại thừa khởi tín đã nói.

Không thủ chấp, không có nghĩa là bỏ ăn chay trở lại ăn mặn. Không chấp, là có thể tùy duyên làm lợi ích chúng sinh mà không bị tập chay mặn làm chướng ngại. Khi cần chay thì chay, khi cần mặn thì mặn, không chướng ngại khi dùng chay mặn.  Hòa thượng Tinh Vân khi dùng cơm ở Hội Phật giáo Nhật Bản đã từng phải ăn mặn, dù “nghe mùi tanh nồng nặc xông khắp”. Biết “canh mình dùng toàn bột nêm tôm cá”, ngài vẫn dùng. Chỉ vì “Phật pháp dùng từ bi làm nền tảng, lấy phương tiện làm cửa vào để tu đạo và độ chúng. Sự thanh tịnh nội tâm mới là quan trọng”6. Do muốn tránh cho mọi người sự khó chịu, nên ngài vui vẻ cùng dùng. Trong những duyên khác, ngài vẫn dùng chay. Tính trung đạo thể hiện qua hành động này. Không vướng chay cũng không vướng mặn, chỉ tùy duyên mà có chay mặn.

Tùy duyên, không phải tùy nghiệp. Chúng ta chỉ tùy duyên được khi thói quen hay tập nghiệp của mình đã dứt. Cho nên, Hòa thượng Trúc Lâm dạy “Tội phước chỉ phát sinh ở tâm niệm vọng động. Tâm không dấy động thì không nói tội phước. Bây giờ Tăng Ni chưa hết phiền não vọng tưởng mà bắt chước ăn thịt uống rượu thì có tội không? Tâm sinh thì tội sinh. Chừng nào tâm hết sinh khởi thì sao cũng được. Vậy quý vị muốn bắt chước thì tâm phải như Thượng Sĩ. Nếu tâm chưa vô niệm thì khoan bắt chước”7. Ăn thịt một khi vẫn là tập của mình thì không nên như Thượng Sĩ. Ăn chay nếu thành tập thì muốn bắt chước Thượng Sĩ cũng không được. Chay mặn đều không còn là tập mới có thể như Thượng Sĩ.

Chú giải:

(1) Đây muốn nói đến loài người, các sinh vật ăn thịt như chó, mèo v.v… và quỷ Dạ-xoa.

( 2) Việc này phải được nhìn theo thế tương đãi. Trong thế giới tương đãi này, không có pháp nào có tướng mà mang tính phổ quát. Tương đãi, nên A xuất hiện thì -A cũng xuất hiện. Chỉ là A đa số hay -A đa số mà thôi.

( 3) Kinh Tạp A-hàm quyển 15 – Bài kinh 373.

(4) Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục giảng giải – HT.Thích Thanh Từ.

(5) Thiền sư Trung Hoa tập I – Dược Sơn (751-834) – HT.Thích Thanh Từ.

(6)  Nghĩa tình trân quý – HT.Tinh Vân, NS.Hạnh Đoan biên dịch.

(7) Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục giảng giải – HT.Thích Thanh Từ.