Trang chủ Diễn đàn Xa rời giới luật trong nếp sống thiền gia

Xa rời giới luật trong nếp sống thiền gia

Vì vậy, người viết bài nay xin được bước đầu nêu một số vấn đề có tính gợi mở về sự phân hóa giàu nghèo và những biểu hiện của sự xa rời giới luật và suy thoái đạo đức nếp sống thiền gia trong một bộ phận tăng ni hiện nay.

Đây là vấn đề lớn có tính cấp bách và rất mong quý vị tăng ni, phật tử và thiện hữu tri thức cùng quan tâm suy ngẫm.

Đất nước đang trong thời kỳ hòa bình, xây dựng, phát triển và mọi người dân đều chung thực hiện một mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh”. Với điều kiện chung đó, Tăng ni, Phật tử từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi lên miền ngược cũng có điều kiện để thay đổi tư duy nếp sống “tự tiêu tự sản” trước đây sang nếp sống mới cho phù hợp hơn, đó cũng có thể là dấu hiệu tích cực, song cũng đã xuất hiện những mặt trái tiêu cực trong đời sống văn hóa tâm linh tín ngưỡng của Tăng ni.

Phật giáo vốn chủ trương “thiểu dục tri túc” (lấy thiếu làm đủ), không quan tâm nhiều đến sự giàu sang phú quý vật chất trong nếp sống thiền gia. Song trong điều kiện chính sách chung, mọi thành phần xã hội có điều kiện phát triển về vật chất nên có khả năng thực hiện tốt hơn về nhu cầu của đời sống tinh thần tín ngưỡng tâm linh và như người ta thường nói “phú quý sinh lễ nghĩa”.

Chính vì vậy, nhiều cơ sở tự viện từ thành thị đến nông thôn cũng có điều kiện đón tiếp nhiều người có vị trí trong xã hội cả về chính trị và kinh tế. Thông qua mối quan hệ đó, mà nhiều cơ sở tự viện được chào đón các đại gia thí chủ phát tâm công đức đến hàng chục tỷ đồng để làm chùa, tô tượng, đúc chuông và những việc làm đó đã được xã hội ghi nhận khuyến khích, trân trọng tích cực.

Thậm chí là có cả những doanh nghiệp mượn danh hiệu giáo hội để đầu tư cả nghìn tỷ đồng lập dự án xin cấp phép xây dựng chùa siêu quốc gia, quốc tế như là minh chứng sống động chi chính sách tôn trọng bảo đảm tự do tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam.

Người sáng lập ra đạo Phật đã từng dạy: “Giới luật là thọ mạng của Phật pháp. Giới luật còn là Phật pháp còn”. Nói như vậy, để chúng ta thấy được vị trí của giới luật hết sức quan trọng trong đời sống của mỗi tu sĩ Phật giáo cũng như tín đồ Phật tử tại gia và thông qua đó khẳng định sự sinh tồn và diệt vong của tổ chức tăng đoàn trước đây và tổ chức giáo hội ngày nay.

Nói đến giới luật nhà Phật, chúng ta có thể kể đến 5 giới, 10 giới, 250 giới đối với tỷ khiêu Tăng và 348 giới đối với tỷ khiêu ni và giới của hàng Bồ Tát. Với vị trí quan trong của giới luật trong đời sống Phật giáo, Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã khẳng định: “Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động theo đúng luật Phật và luật pháp” (điều 7).

Trước đây, những năm đất nước khó khăn, chiến tranh loạn lạc, điều kiện tu học của Tăng ni, Phật tử là hết sức khó khăn, thậm chí là phải bị hạn chế một số quyền của công dân để tập trung ưu tiên cho nhiệm vụ chung của đất nước là đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước.

Trong điều kiện đó, Tăng ni, Phật tử Phật giáo Việt Nam tu học theo truyền thống các tổ chức hệ phái và nếp sống quy củ thiền gia được đề cao hơn bao giờ hết, giới luật được nghiêm trì, nên không hề lay chuyển ý chí tu học của Tăng ni, tất cả đều chung một chí nguyện là “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”, nhờ đó mà Phật pháp được xiển dương.

Thành tựu đó đã được phát huy sâu rộng trong công cuộc vận động Tăng ni, Phật tử cả nước thực hiện ý nguyện thống nhất tổ chức hệ phái Phật giáo trong phạm vi toàn quốc năm 1980 và đó là tiền đề để tổ chức thành công Hội nghị thống nhất Phật giáo năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời từ đó.

Kể từ đó đền nay, Tăng ni, Phật tử cả nước sống chung một ngôi nhà Phật giáo dựa trên một nguyên tắc: thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức và kiên định thực hiện phương châm hành động là “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”. Và đó là cơ sở để cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam khẳng định mình trong đời sống xã hội và tích cực triển khai nhiều hoạt động Phật sự thiết thân cùng với dân tộc.

Là người Phật tử chân chính, chúng ta không thể không quan tâm đến sự xa hoa, lãng phí của một số cơ sở tự viện và những biểu hiện gần đây của một số vị Tăng ni thành viên của giáo hội khi tổ chức các sự kiện này hay sự kiện khác, hoặc mua sắm các trang thiết bị sang trọng như ô tô hiện đại đắt tiền trị giá vài tỷ đồng một chiếc, đủ các chủng loại biển số xanh trắng.

Quan sát kỹ, chúng ta còn thấy mỗi góc chùa lại có camera theo dõi, dịch vụ ghi chép đầy đủ từ mẫu phiếu thu chi đến dịch vụ ma chay hiếu sự trọn gói. Nhìn vào đó, nếu người mới đến cứ tưởng là cơ quan của Nhà nước hoặc chùa có vị quan chức lớn đến viếng thăm.

Phật giáo vốn không lạm dụng vật chất và tất cả đều coi là phương tiện để chuyển hóa nhân tâm con người. Nhưng những gì mà những ngôi chùa có được những tài sản có giá trị được đề cập ở trên thì chúng ta không thể không suy nghĩ.

Trong khi đó, các đại gia phải đổ mồ hồi, sôi nước mắt, khả năng trí tuệ mới có thể lãnh đạo quản lý doanh nghiệp của mình để thành công việc kinh doanh, có một chút lãi là để phát triển doanh nghiệp, tạo công ăn việc làm cho công nhân, chứ không dám nghĩ đến việc mua sắm một chiếc xe hạng sang để thể hiện mình là chủ tịch hay tổng giám đốc.

Vậy mà một ngôi chùa mang dáng cổ kính, thiền gia, có những vị Tăng ni lại sử dụng chiếc xe ô tô đắt giá như vậy, họ lấy nguồn kinh phí từ đâu mà mua sắm, rồi kinh phí trang trải sử dụng hàng ngày nữa.

Có những vị Tăng ni tích cóp gửi ngân hàng này ngân hàng khác nhiều tỷ đồng, có vị mua chứng khoán, cho vay lãi ngày, rồi mua vàng tích trữ. Có những vị để tiền vàng trong két tại chùa bị kẻ gian đột nhập lấy cắp, người khai báo, người lặng lẽ giữ kín vì sợ dư luận của thập phương.

Trong suốt thời gian qua, thông qua các phương tiện truyền thông, chúng ta thấy xuất hiện nhiều hoạt động mang tín tâm linh, tín ngưỡng, uống nước nhớ nguồn do vị tăng ni đại diện tổ chức giáo hội đứng ra tổ chức ở nghĩa trang liệt sỹ này nghĩa trang liệt sỹ kia, thậm chí là có cả những cơ quan của Nhà nước cùng phối hợp tổ chức các hoạt động này và trong các buổi lễ đó còn có sự hiện diện của vị lãnh đạo này vị lãnh đạo kia đã làm nức lòng các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là các gia đình có người thân hy sinh.

Trước hết phải khẳng định đây là những hoạt động mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong đời sống văn hóa người Việt và đặc biệt là đối với đất nước ta phải trải qua quá nhiều chiến tranh, nhiều thế hệ người Việt đã ngã xuống vì độc lập dân tộc. Cho nên, những hoạt động nêu trên thu hút và có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống xã hội.

Nhưng một sự thật là các hoạt động tổ chức đó quá phô trương, hình thức và bao hàm cả những dụng ý cá nhân để thanh thế bản thân, tạo sự quan tâm của cộng đồng xã hội và thiết lập quan hệ có đi có lại và toại lòng nhau của người làm tổ chức sự kiện này. Và họ coi đây là sân tập trung có hiệu quả nhất cho cả người trong đạo, ngoài đạo và người sống với cả người khuất.

Có những vị đứng ra chủ trì một buổi lễ cầu siêu phải vận động nguồn kinh phí để tổ chức sự kiện tốn kém hàng chục tỷ đồng. Nào là kinh phí để thuê máy bay đón rước chư Tăng ni, Phật tử đến cầu nguyện, ăn ở, nào là kinh phí cho việc thỉnh mời và hậu tạ sau khi hoàn lễ. Rồi lễ nghi hoa quả, bánh trái, vàng mã cho vong hồn, trang trí phông bạt, âm thanh, ánh sáng…

Và cứ như thế, mỗi dịp vào rằm tháng 7 âm lịch, dịp tổ chức kỷ niệm năm chẵn của các ngành các cấp, những nghĩa trang quốc gia lớn đã thu hút hàng vài chục lễ cầu siêu như vậy. Kinh phí cho “hiếu nghĩa” đó mỗi năm như vậy toàn xã hội phải chi hàng nghìn tỷ đồng.

Trong khi đó, đất nước ta đang có hàng vạn gia đình có công với đất nước đang sống trong điều kiện khó khăn, hàng triệu người là nạn nhân của chiến tranh đang phải vật lộn với cái sống và cái chết, đặc biệt là nạn nhân chất độc da cam. Số kinh phí đó nếu được vận động để thiết thực ủng hộ những hoàn cảnh khó khăn kia thì những vong linh đang nằm tại các nghĩa trang liệt sỹ được hưởng biết bao nhiều công đức. Thật là lợi cho cả người sống và ích cho cả người đã khuất.

Từ những hoạt động hình thức đó, những vị tham gia tổ chức sự kiện đã tạo nên sự quan hệ thân thiết với các vị lãnh đạo giáo hội có chức có quyền. Nay thỉnh mai tạ, nay đi chỗ này mai đến chỗ kia và tất cả nhu cầu của quý ngài đều được đáp ứng.

Bên cạnh đó là có sự bảo trợ của một số người có vị trí cho xã hội, nên tha hồ mà dương oai với thiên hạ và sẵn sàng tạo nên vây cánh bè phái và thao túng giáo hội để tạo dựng nên lợi ích nhóm như ngoài xã hội đang phải đối mặt.

Có vị Tăng ni theo đuổi những việc làm đó mà không còn thời gian để nghiêm trì giới luật Phật chế, sáng ở nam chiều ở bắc như là một nhà ngoại giao quốc tế thực thụ. Những tài sản của chùa, tài sản cá nhân mà Tăng ni có, đều do Phật tử tín tâm công đức với mục đích là thực hiện tứ ân của người con Phật. Để quý thầy làm phương tiện tiếp dẫn chúng sinh. Vây mà một bộ phận tăng ni đã triệt để lợi dụng vấn đề này, sống xa hoa lãng phí, làm ảnh hưởng đến uy tín người xuất gia.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn xã hội đang phải đấu tranh chống tham nhũng, xa hoa lãng phí, thì một bộ phận nhỏ Tăng ni đang đứng dưới danh nghĩa thành viên giáo hội lại có những biểu hiện xa hoa, phô trương hình thức, lãng phí của cải của thập phương.

Những vấn đề nêu trên là vấn đề lớn liên quan đến sự tồn vong của tổ chức giáo hội. Là những người chân chính chúng ta không thể không biết và không quan tâm vấn đề này với một tinh thần thực hiện lời dạy của Đức Thế Thế Tôn trong Kinh Đại Bát Niết bàn: ‘Này các tỷ kheo, khi nào chúng tỷ kheo có tín tâm, có tàm, có quý, có nghe nhiều, có tinh tấn, có chính niệm, có trí tuệ, thời này cá tỷ kheo, chúng tỷ kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm”.