Trong tiến trình lịch sử, Hội An từng là địa bàn của cư dân
Do vị trí đặc biệt, Hội An là vùng giao lưu và trung chuyển giữa nhiều nguồn văn hóa khác nhau qua nhiều thế kỷ trước, cho nên đã thể hiện nền tảng những nguồn tín ngưỡng khác nhau:
Trước hết, nơi đây còn nhiều di tích về đình, chùa, tháp, điện thuộc tín ngưỡng truyền thống, của Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo, Ky Tô Giáo, kể cả di sản của Hồi Giáo của người Chăm Pa. Những miếu thần cổ có tên Việt như Lăng Bà Lồi, Bà Giàng.
Sự hiện diện của các đồng tiền Ngũ Thù, Vương Mãng, rồi Qua, Dao kiểu Tây Hán, vò Hán. cho thấy : vào giai đoạn bản lề trước và sau Công nguyên, nhiều địa điểm cửa sông ven biển của vùng này – trong đó có cả Hội An – là vùng sầm uất về thương mại, hình thành cảng thị sơ khai của những tiểu quốc trong vùng. Từ đó, đã dẫn tới sự hưng thịnh của những cảng thị trên con đường thương mại quốc tế ven biển ở những thế kỷ 9 và 10 và những giai đoạn kế tiếp sau đó..
Tại khu vực Hội An bây giờ còn khá nhiều dấu tích kiến trúc bằng gạch của Chăm Pa, mặc dù đã bị thời gian và con người hủy hoại khá nhiều, như ở khu vực Thanh Chiếm, xã Cẩm Hà, An Bang, Cẩm Thanh, khu vực Cù lao Chàm… Tại những địa điểm kể trên, đã phát hiện được vết tích móng kiến trúc, gạch Chàm, mảnh tượng, những loại phù điêu… Căn cứ vào những hiện vật này, có thể đoán định được rằng: Trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 12, đã từng tồn tại những kiến trúc thờ cúng cỡ vừa và cỡ lớn của người Chăm Pa. Những tác phẩm điêu khắc bằng loại sa thạch được tìm thấy khá nhiều. Ðó là những tượng thờ thần Gandhava thuộc phong cách Khương Mỹ, Thần Kuvera thuộc phong cách Trà Kiệu của người
Những vết tich văn hóa Chăm Pa vẫn lưu lại trong người Việt cho đến nay, thể hiện ở một số lễ tục; các kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, đánh bắt thủy sản, đặc biệt là kỹ thuật đóng ghe bầu… đều là những chứng liệu để hình thành cuộc nghiên cứu văn hóa sâu rộng tại vùng Chiêm Cảng. Tại Hội An, còn có những vết tích của nền văn hóa Sa Huỳnh ở giai đoạn muộn. Những cuộc khai quật khảo cổ học tại những hố đào thám sát tại An Bang, Thanh Chiêm, Hậu Xá (thuộc xã Cẩm Hà – một xã ngoại vi của Hội An) đã khai quật được một số di tích thuộc nền văn hóa này. Ðó là di tích về mộ táng và di chỉ cư trú văn hóa Sa Huỳnh.
Tất cả tập trung trên một dải cồn cát dài 5km, ở địa phận Cẩm Hà. Những mộ chum khai quật tại đây thuộc 2 loại hình chum đặc trưng của văn hóa Sa Huỳnh vùng Quảng
Ðặc biệt trong thời gian gần đây, những cuộc khai quật khảo cổ học ở Cù lao Chàm và phụ cận, đã phát hiện được những mảnh gốm Islam, bên cạnh những mảnh thủy tinh có nguồn gốc từ vùng Trung Cận Ðông, ở thế kỷ 9 và thế kỷ 10. Loại thủy tinh này cũng được phát hiện khá nhiều trong những đợt khai quật tại 2 bến cảng cổ Ko Kho Thao, tỉnh Phangnga và Laem Pho, tỉnh Suratthani, miên nam Thái Lan. Ðiều này cho thấy sự liên quan trong giao lưu văn hóa và tín ngưỡng Hồi Giáo tại đây cũng trở thành mấu chốt để nghiên cứu.
Những di tích của người Chăm Pa qua những đền thờ nổi tiếng: Mỹ Sơn, Ðồng Nà (Cẩm Hà), Trảng Sỏi (Cẩm Hà) Thanh Chiếm (Cẩm Hà) Lăng Bà, Hậu Xá, Bãi Làng (Cù Lao Chàm), Trà Quế, Trà Quán, Làng Mây … Di tích văn hóa Sa Huỳnh, giai đoạn muộn cũng mang dấu ấn quan trọng. Những cuộc khai quật khảo cổ học trong những thập niên vừa qua và vết tích đang trong vòng nghiên cứu sẽ tập trung thành những tư liệu quý giá để đánh giá lại tín ngưỡng của toàn vùng trong thời gian tới đây.
Tại vùng duyên hải, cư dân nghề biển có tục thờ Cá Ông, lễ Cầu Ngư, hội lễ Long Chu là sự hòa đồng và tích hợp giữa Phật Giáo, Ðạo Giáo hòa quyện với tín ngưỡng dân gian. Ðây lại là một sinh hoạt tổng hợp, có bóng dáng của các môn bùa phép ếm đối thờ đá của người Chăm Pa, của quan niệm đưa hồn qua Giác Hải, lễ dâng quả đầu mùa của người Thái, lễ tạ ơn của người Thượng.
Tín ngưỡng hương thôn tại vùng Hội An và phụ cận được thực hình những kỳ Xuân tế và Thu tế qua những ngôi đình tiêu biểu như sau: Ðình Ðế Võng (thuộc Sơn Phô, xã Cẩm Châu – thế kỷ 17) : Có thể căn cứ theo tư liệu bia mộ của cụ Nguyễn Viết cho biết rằng: Ngôi đình này là do vị Tiền hiền của họ Nguyễn Viết, cũng là Tiền hiền của Ðế Giang (Ðế Võng) được kiến tạo từ thời Thịnh Ðức (1653 – 1657) và đời Cảnh Thịnh (1666 – 1671) quy tụ sự đóng góp công sức và tiền bạc của dân trong vùng; được xem là ngôi đình xưa nhất của Hội An Trung tâm của đình này thờ Thần Ðất, Tiền Hiền Nguyễn Viết, Hậu hiền. Nơi đây cũng đã thể hiện cảnh quan thờ cúng “Tiền Thánh, hậu Thần” theo tinh thần Ðạo Giáo và Khổng giáo, hòa quyện với tín ngưỡng thờ Mẫu.
Ðình Ông Voi (Phường Minh An) (còn được gọi là đình chính của Hội An ngày nay), được trùng tu nhiều lần, mãi cho đến những cuộc trùng tu sau 1975. Có thể tìm thấy ở đây những nghi thức cúng tế và lễ hội, diễn xướng đúng nghĩa với phong tục địa phương. Không loại trừ ảnh hưởng khá đậm của
Ðình Sơn Phong (thuộc phương Sơn Phong – thế kỷ 18): Ðây là ngôi chùa duy nhất tại Hội An được nhận sắc tứ, kể từ thời vua Thiệu Trị (1843). Ðình này thờ Cửu Thiên Huyền Nữ và vị Thành Hoàng.
Ðình Hội An Tiên tử (số 7 đường Lê Lợi – xây năm 1833): Có thể tìm thấy được niên hiệu kiến tạo sau cùng vào năm “Minh Mạng thập tứ niên” (1833), với sự góp công sức và tài vật của dân toàn vùng. Với nghĩa “Tiên tử”, tính chất Mẫu trong các lễ hội in dấu ấn khá sâu sắc. Người dân trong toàn vùng thường đến lễ cúng, cầu đảo trong ngày Sóc và ngày Vọng trong mỗi tháng. Nhờ vậy, những lần trùng tu tiểu quy mô ngày càng nhiều thêm. Ðình này thờ Tiền Hiền Hội An.
Ðình Minh Hương Tiền hiền (Phương Minh An, xây năm 1725): Cũng theo lối thờ phụng “Tiên tử” của ngôi đình trên, ảnh hưởng của Ðạo Giáo không ít, trong cách thiết trí, thò cúng và lôi cuốn tín đồ trong vùng. Di tích thờ cúng còn thấy có vị Quan Thánh Ðế Quân, Thập Ðiện Diêm Vương, xen lẫn với đức Quan Âm Tống tử, một sự tích hợp thờ phụng khá tiêu biểu trong kết hợp nhiều hình ảnh tôn giáo khác nhau. Ðây cũng là đền thờ “Thập Lão”, tức là 10 vị đứng đầu các chi phái. Ðó là: Khổng Thái lão gia, Do lão gia, Cù lão gia, Chu lão gia, Trần lão gia, Nha lão gia, Từ lão gia, Hoàng lão gia, Trương lão gia, Lưu lão gia; các dòng phái này đều thuộc người Minh Hương, đến buôn bán và cư ngụ ở đây vào thời chúa Nguyễn vào Nam. Ngoài ra, có bàn thờ những người không con cái, trước khi chết đã xin “gửi hậu”.
Dựa vào những vết tích Chăm còn lại, một số nhà nghiên cứu cũng đã dựng lên lại bức tranh khá sinh động về vùng Cửa Ðại Chiêm – Hội An dưới thời Vương quốc Chăm Pa, thương thuyền ngoại quốc ghé đến Cửa Ðại Chiêm – Lâm Ấp Phố để buôn bán, trao đổi những đặc sản hay để tiếp tế thêm lương thực, thực phẩm, đặc biệt là tiếp tế nước ngọt dùng trong hành trình dài. Những thương thuyền này theo tuyến đường từ Ả Rập, Ấn Ðộ, Ðông Nam Á sang Trung Hoa, Nhật Bản, và đi ngược lại. Ðạo Thiên Chúa truyền sang trong giai đoạn này. Những kết quả khai quật khảo cổ học gần đây ở Trảng Sỏi, Cù Lao Chàm… đã cung cấp thêm chứng cứ vật chất cho những nhận định kể trên.
Nhóm khảo cổ học Nhật Bản thuộc trường Ðại Học Nữ Chiêu Hoàng đã sang tiến hành những cuộc khai quật và nghiên cứu: tại khu vực đình Cẩm Phổ đã khai quật được nhiều loại hình gồm, sành, trong đó, có những loại hình tương đương như những loại được tìm thấy ở
Tại khu vực Hội An, gần Cù Lao Chàm, những năm gần đây liên tục phát hiện được những con tàu đắm, chở những loại đồ gốm Chu Ðậu, Hải Hưng; những nhà nghiên cứu đã dựa vào những phát hiện này để chứng minh rằng: Từ cảng Hội An, các sản phẩm gốm Ðại Việt đã theo các tàu buôn nước ngoài, vượt đại dương đến các nước thế giới.
Hội An với tính chất là ngõ giao lưu sông biển của mình, là nơi tiếp xúc mạnh mẽ của nhiều nguồn văn hóa khác nhau, nơi thu nhận đầu tiên những yếu tố ngoại sinh Nam Trung Phần. Ðiều này giúp cho việc nghiên cứu văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Chăm Pa mang tính tiên phong thực sự trong diễn biến văn hóa nước ta.
Trong khu phố cổ Hội An, đã thống kê được 23 ngôi chùa theo kích cỡ lớn nhỏ khác nhau. Những kiến trúc, điêu khắc kiến trúc tại đây được tập trung vào 2 loại bố cục chính:
Loại thứ nhất gồm có hai nếp nhà song song, nhưng không gian nội thất thì nối liền lại với nhau làm một, như chùa Hải Tạng (thế kỷ 18) và chùa Viên Giác (thế kỷ 19). Loại thứ nhì gồm có một căn nhà chính nối liền một phần hậu cung được xây nhô ra phiá sau, để thành bình đồ hình chữ “T”. Ðó là kiến trúc của chùa Chúc Thánh (thế kỷ 18), chùa Vạn Ðức (thế kỷ 18).
Nhờ sự tập trung nơi đây trở thành một tụ điểm kinh tế quan trọng của Ðàng Trong, nền thương nghiệp phát triển sớm, từ xưa đã được coi như là một trong những trung tâm Phật Giáo lớn ở miền Trung Việt Nam.
Tín ngưỡng một số chùa Hội An mang tính đa dạng: chùa Hội An, ngoài chức năng thờ Phật và chư Bồ Tát, La Hán như bao nhiêu ngôi chùa khác, thì lại còn có thêm việc thờ Thánh thần; tiêu biểu là các vị Thiên Hậu Thánh Mẫu, Ông Chúc, Bà Mụ, Thần Tài, Ông Bổn, được du nhập theo tín ngưỡng dân gian của người Hoa. Trong một số trường hợp khác, chùa lại được sử dụng làm hội quán để hội họp trong nhiều nội dung khác nhau.
Văn bia hiên dựng tại một số ngôi chùa cổ như chùa Chúc Thánh, chùa Phước Lâm, chùa Hội Phước… ghi niên đại khởi dựng khá sớm (từ thế kỷ XV), phổ biến nhất là vào thế kỷ 17 – 18. Những cuộc trùng tu chùa chiền đa phần là vào thế kỷ 19. Những cuộc trùng tu này thực hiện khá nhiều vào triều vua Tự Ðức.
Những ngôi chùa khác như Long Tuyền, Cẩm Hà, Viên Giác, được kiến trúc toàn bộ theo phong cách mới, khung chùa là những bộ khung bằng gỗ.
Chuà Chúc Thánh (xã Cẩm Hà) là mô thức kiến trúc PG điển hình miền Trung thời đó. Căn cứ theo dòng chữ ghi trên xà có của chùa ghi “Minh triều Cảnh Thái, ngũ niên, tuế Giáp Tý niên” (tức năm 1454) thì có thể chùa Chúc Thánh là di tích kiến trúc có niên đại cổ nhất được biết hiện nay tại phố cổ Hội An. Chùa Chúc Thánh được xây dựng vào thế kỷ 15, theo dòng chữ trên xà có của nó, có đáng tin hay không ? Hiên nay, trong những cuộc hội thảo về Hội An, vấn đề còn đang trong vòng tranh luận. Dù có nhiều ý kiến nghi ngờ về thời gian kiến tạo của chùa Chúc Thánh không quá sớm đến như vậy, tuy nhiên, cũng chưa có chứng tích nào để xác quyết là di tích kiến trúc ở đây có tuổi muộn hơn ! Về sau, chùa Chúc Thánh quy tụ những cao tăng thuộc dòng Thiền Lâm Tế (Rinzai). Có thể do ảnh hưởng của những thương nhân Nhật Bản. Nhà sư Thích Ðại Sán từng viếng và đề thơ ở Chúc Thánh.
Chùa Bà Mụ (còn có tên là Tổ đình Cẩm Hà cung, Hải Ðình Cung, chùa Ông Chú:) là một trong những di tích kiến trúc gắn liền với sự thăng trầm của kiến trúc đô thị thương cảng Hội An. Người Hoa kiến tạo và điều hành sự vụ tại chùa này. Qua những cuộc chiến vừa qua, ngôi chùa này đã từng bị tàn phá nặng nề; cho đến 1975, chỉ còn vết tích một cửa tam quan cao 7 mét, rộng khoảng 50 mét, có trình bày đồ án hoa quả và rồng phượng. Di tích còn sót lại trên tường có ghi “Tự Ðức Nguyên Niên” (tức là năm 1847). Sau mới được kiến tạo thêm.
Sử liệu Ðại Nam Nhất Thống Chí cho biết thêm các chi tiết: Chùa Bà Mụ (Cẩm Hà cung) do Thập lão xây dựng, nguyên trên vùng đất Cẩm Phô, gần Thanh Hà, vào thế kỷ 17; sau đó, do suy thoái, nên chuyển về địa điểm hiện tại.
Theo nghiên cứu của Giáo sư Trần Kinh Hòa thì: Ngôi chùa này được khởi dựng vào năm 1626; việc chuyển ngôi chùa về địa điểm mới vào năm Gia Long thứ 5 (tức 1806). Ở nơi đây, ngoài thể loại kiến trúc vốn có từ trước bảo lưu được, lại còn dựng thêm “Hải Bình Cung”. Cung này thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu; Thập Nhị Thiên Nương ở phía hữu; Cẩm Hà Cung ở phía tả; nơi đây thiết lập thờ Bảo Sanh Ðại Ðế, Huyền Thiên Ðại Ðế, Thái Thượng Lão Quân. Tượng Phong thần của “36 tướng” cũng được thờ chung.
Căn cứ theo văn bia thì: Hải Bình Cung còn được gọi là Miếu Bà Mụ; Cẩm Hà Cung còn được gọi là Chùa Ông Chú. Tuy có những sai khác nhau như vậy, tuy nhiên, vẫn có thể xác nhận rằng: Chùa Bà Mụ ban đầu kiến lập ở vị trí khác, niên đại thế kỷ 17; Chùa Bà Mụ hiện nay tại Hội An thì được xây dựng muộn hơn, có thể vào thế kỷ 19 (đời Tự Ðức).
Chùa Quan Âm và miếu thờ đức Quan Công : Chùa Quan Âm và miếu thờ Quan Công (của người Hoa) dù chưa rõ niên đại kiến lập, tuy nhiên, năm đại trùng tu có ghi qua văn bia đá dựng tại ngôi miếu, xác định năm 1767. Tren bia này còn ghi thêm: “Quan Thánh Ðế Miếu và Quan Âm Tự bản xã đã hơn 100 năm nay”. Tấm bản chính diện miếu Quan Công thì đề niên hiệu Khánh Ðức, năm Quý Tỵ (1653), chính là niên đại sớm nhất còn tìm thấy được trong di tích. Ngoài ra, trong miếu này còn bảo lưu được 3 bức hoành phi, được ghi những niên đại: 1647, 1653 và 1659. Những niên đại này có thể minh định về kiến tạo hay trùng tu hay không ? Ðây còn là nghi vấn. Tuy nhiên niên đại trùng tu thì có thể xác quyết qua văn bia. Văn bia này xác định rõ: Miếu Bà Chùa được trùng tu 6 lần: Cảnh Hưng thứ 14 (1753), Cảnh Hưng thứ 44 (1783); Minh Mạng thứ 8 (1827), Tự Ðức thứ 17 (1864); Thành Thái thứ 16 (1904) và sau cùng là năm Bính Ngọ (1966).
Sử liệu nhà Nguyễn cũng ghi chép địa danh này. Chẳng hạn trong Ðại Nam Nhất Thống Chí (Quyển thứ 5) đã chép: “Miếu Quan Công ở phố Hội An, huyện Ðiện Phước, do dân chúng người làng Minh Hương góp công sức xây dựng lên; trong miếu thờ Quan Thánh Ðế Quân, có quy chế lộng lẫy. Vào năm Minh Mạng thứ 6 (1825) Thánh Tổ Nhân Hoàng Ðế tuần du phương Nam, xa giá qua ngôi đền này, đã ban cho 300 lạng bạc, để chỉnh tu. Ngoài hiên, gần mái của tòa nhà chính tẩm, còn có treo tấm hoành phi lớn, khắc thơ của Nguyễn Nghiễm, Uông Sĩ Dư, Nguyễn Kim Tân, vào niên hiệu Cảnh Hưng (1775).
Cũng đề cập thêm một dạng thức mới là Cầu Chùa, vì trên cầu có chùa. Tương truyền cầu này là do những khách buôn người Nhật Bản thuộc dòng Lâm Tế bắc lên, cho nên còn được gọi là chùa Nhật Bản. Năm Kỷ Hợi thứ 28 (1719) Hiển Tông Hiến Minh Hoàng Ðế (chúa Nguyễn Phúc Chu) đi tuần du phương Nam, khi xa giá đến Hội An, thấy phía tây phố có cầu, thuyền buôn tụ họp, bèn ban cho tên là “Lai Viễn Kiều”, viết chữ khắc biển vàng. Di tích nay vẫn còn. (theo Nguyễn Quốc Hùng).
Tuy nhiên, cầu này đã được nêu lên từ trước. Vào năm 1693, trong “Hải Ngoại Ký Sự” vị sư Thích Ðại Sán đề cập khá rõ, gọi đó là “Nhật Bản Kiều”. Hiện nay, dân chúng ở đây vẫn gọi là “chùa Nhật Bản”. Cầu được bắc qua một nhánh nhỏ của sông Thu Bồn (gọi là sông An Hội), ngày nay nối liền 2 phố Trần Phú (phường Minh An) và Nguyễn Thị Minh Khai (phường Cẩm Phổ). Theo nhiều tư liệu thì chiếc cầu này được kiến tạo vào khoảng cuối thế kỷ 16 (năm 1596), và cũng được trùng tu nhiều lần. Theo văn bia ghi chép, có ít nhất là 4 lần trùng tu vào các đời Gia Long thứ 16 (1817) Tự Ðức thứ 18 (1865), Khải Ðịnh thứ 2 (1917) và gần đây nhất là năm 1986.
Cầu được kiến tạo theo kiểu “thượng gia – hạ kiều” Mái lợp ngói âm dương. Mặt cần lát ván. Hai đầu cầu nối với 7 gian giữa, kết cấu theo hình chữ “I”; trụ cầu được xây bằng đá khá vững chắc. Bộ vì nóc của hai đầu cầu được kiến tạo theo kiểu thức “chồng đấu – con sơn” (đấu củng), mô hình khá độc đáo trong số những cầu cùng thể loại (như Cầu Ngói Thanh Toàn tại Huế). Hai gian đầu cầu làm theo “hệ thống đấu củng”, nhưng phía dưới thì theo dạng “vài” “vỏ cua”. Các cột cầu bằng gỗ, mặt cắt ngang gần vuông con soi chỉ vuốt tròn 4 góc. Trang trí chạm khắc tập trung ở bộ vì kèo bằng gỗ và ở bờ nóc, bờ dải của mái.
Ở mặt nam, cầu nhìn ra phía sông, mặt bắc có một ngôi chùa nhỏ. Bộ vì nóc của chùa ăn liền với bộ vì nóc của cầu theo kiểu trính chồng trụ đội, thường thấy trong kiến trúc miền Trung. Cầu và chùa ngăn cách bởi bộ gỗ làm theo kiểu “thượng song – hạ kiều”. Di vật cổ và có giá trị hiện nay còn lại hiện nay ở chùa là bức hoành phi chạm ba chữ Hán lớn “Lai Viễn Kiều”. Tương truyền bút tích của chúa Nguyễn Phúc Chu viết năm 1719. Hai đầu cầu có 4 tấm bia đá khắc ghi những lần hưng công tu bổ cầu. Ðầu phía tây cầu có tượng hai con khỉ (thân); đầu phía đông cầu có tượng một con chó (tuất). Theo nhân dân địa phương, tượng khỉ và tượng chó có liên quan đến thòi xây dựng cầu mất 3 năm (3 con vật), tức là năm Thân cho tới năm Tuất.
Một giả thuyết cho rằng: vị thần được thờ ở chùa bên cầu là “Huyền Thiên Ðại Ðế”. Theo thần tích và huyền thoại của người dân Minh Hương sinh sống tại đây thì: Từ thuở xa xưa, quãng sông gần cầu Nhật Bản này là hang ổ của những loài thủy quái (con cù). Hàng ngày, thủy quái ẩn dưới nước, mỗi lần thủy quái quẫy mình thì nước sông dâng lên làm ngập cả khu phố. Ðể yểm trừ loài thủy quái này, dân lập đền và rước vị thần có đủ tài ngăn chận tai họa do thủy quái gây nên. Vị thần đó chính là Huyền Thiên Ðại Ðế.
Theo thần tích của làng Minh Hương thì: Huyền Thiên Ðại Ðế là người gốc từ phương Bắc. Tục truyền: Từ xa xưa, ở phía Bắc lục địa châu Á này có một con quái vật, tục gọi là “Con Cù”. Ðầu nó ở tận phía Bắc; mình nó ở Nhật Bản, đuôi nó kéo dài sang tận nước ta. Cứ mỗi lần con cù trở mình, thì cả lục địa đều rung chuyển lên, sóng cuồn cuộn rất nguy hiểm. Ðó là nạn động đất triền miên ở tại vùng này. Thành thử, người Nhật Bản tôn sùng một vị thần có đủ sức mạnh nhất, đồng thời cũng tổ hợp một số lớn thanh niên có đủ sức mạnh để luyện tập theo phép của vị thần chuyên về nghề phong thủy. Nhờ thế chiến thắng được. Từ đó, vị thần này (Huyền Thiên Ðại Ðế) được thờ tại đây, theo tín ngưỡng của người Nhật sang buôn bán tại thương cảng Hội An.
Thuyết khác: Trong ngôi chùa này thờ Linh Phù Thủy Khấu. “Linh phù” được dịch từ chữ “Linga” là vết tích tín ngưỡng của người Chăm Pa. Thủy Khấu nghĩa là cướp biển. Thuật ngữ “Linh Phù Thủy Khấu” có thể giả định là “vị thủy thần trợ giúp cho những người đi biển” được kết hợp với tín ngưỡng Chăm Pa, nên đã được bảo lưu trong hệ thống tín ngưỡng tại đây. Lại cho rằng: hai pho tượng “Chó Linh” và “Dã Nhân” ở Lai Viễn Kiều chính là hình ảnh của Thái Dương Thần nữ, hộ trì cho những người sang cầu (?).
Tại những đến miếu ở Hội An và vùng phụ cận, một hệ thống thờ đạo Mẫu rất đông đảo. Chẳng những thế, đến cả những chùa và đình cũng đan xen việc thờ Mẫu. Miếu Ngũ Hành Hạ (số 6 đường Nguyễn Thái Học và Ngũ Hành Thượng (số 124 đường Nguyễn Thái Học) đều thờ Ngũ Hành Nương Nương Ngũ Vị Quan Lớn, Mẫu Thượng Ngàn; chùa Quan Âm, tức Miếu Bà (số 24 đường Trần Phú), ngoài việc thờ đức Quán Thế Âm Bồ Tát là chính, vẫn có thờ Tứ Vị Thánh Bà, Long Thần Bát Ðại Hải Vương, Tam Phủ, Tứ Phủ Miếu Bà Vàng (tại thôn 3, xã Cẩm Thạnh) thờ Nam Hải Cự tộc và đức Thiên Y A Na của người Chăm Pa …
Về những ngôi đình, tính cách thờ phụng “Tiền Thần, hậu Thánh” vẫn là nét đặc trưng: Ðình Ðế Võng (thôn Sơn Phô, xã Cẩm Châu – ngoại thành Hội An) ngoài thờ Thành Hoàng, lại còn thờ thêm Thần Ðất, Tiền Hiền, Hậu Hiền; đình Sơn Phong (phường Sơn Phong) cũng thờ thêm Cửu Thiên Huyền Nữ, đình Ông Voi (phường Minh An) lại còn thờ thêm Bà Ðại Càn…
Nhìn chung lại hệ thống thờ Mẫu tại những trung tâm tín ngưỡng này, ít nhiều đều có thờ chư vị: Ngọc Hoàng, Tam Tòa Thánh Mẫu (tức Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải và Ðịa Tiên Thánh Mẫu); Ngũ Vị Vương Quan (từ Ðệ Nhất đến Ðệ Ngũ); Tứ Vị Chầu Bà (hóa thân của Tam Tòa Thánh Mẫu); Ngũ Vị Hoàng Tử. Thập Nhị Vương Cô, Thập Nhị Vương Cậu, quan Ngũ Hổ, ông Lốt rắn…
Hệ thống Tứ Phủ trong Ðạo Mẫu gồm có: Thiên Phủ, Ðịa Phủ, Nhạc Phủ và Thủy Phủ. Giúp việc cho 4 vị Thánh Mẫu kể trên, lại còn có thêm nhiều vị Thánh thuộc các hàng Quan, Chầu, Ông Hoàng, Các Cô, Các Cậu… Trong hệ thống này, quan trọng và phổ biến hơn cả là vị Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Bà Liễu Hạnh lại còn có thể hóa thân vào Mẫu Thượng Ngàn trông coi vùng rừng núi hay Mẫu Thoải (Thủy) trông coi vùng biển.
Trong những điện miếu và đình chùa nói trên, có thể nhìn vào màu sắc để phân biệt: màu trắng là thuộc Thủy Phủ, màu đỏ là thuộc Thiên Phủ, màu xanh là thuộc Nhạc Phủ, màu vàng là thuộc Ðịa Phủ.
Du khách đến thăm phố cổ Hội An trong bất cứ mùa nào hay thời tiết nào cũng có thể dự kiến nhiều buổi hầu bóng, trong đó Lễ Nhập Hồn là quan trọng nhất. Ðây là hồn của các vị Thánh Tứ Phủ vào thân xác của các ông Ðồng, bà Cốt.
Những ngày lễ quan trọng nhất tại Hội An về đạo Mẫu phải kể đến: Lễ Hầu Xông đền (sau lễ Giao thừa năm mới), lễ Hầu Thượng Nguyên (tháng Giêng), lễ Hầu Nhập Hạ (tháng Tư), lễ Tán Hạ (tháng Bảy), lễ Tất Niên (tháng Chạp) và lễ Hạp Ấn (25 tháng Chạp âm lịch).
Tục thờ cá Ông và lễ Nghinh Ông ở Hội An: Hội An và vùng ven biển của cửa Ðại sông Thu Bồn, đa số dân chúng sống bằng nghề đánh cá trên sông hay trên biển. Tín ngưỡng của họ thường gắn liền với sông nước, biển khơi, Ðây là các hình thức thờ những vị Thủy thần: Hà Bá (thần sông), Rắn biển với các loại “Ðển Hèo” (chúa loài rắn mà ngư dân quen gọi là Ông), Bà Lạch (hay Bà Mộc, Mộc Trụ Thần Xà), thờ Cô Bắc (tức vong hồn người chết ngoài biển khơi), thờ Tứ Vị Thánh Nương, Tống Hậu, Ðộc Cước…
Tuy nhiên, trong số những Thủy thần, không có vị Thần nào được thờ cúng, được tôn kính, cùng với những nghi thức, lễ hội và diễn xướng uy nghiêm, tưng bừng cho bằng tục thờ Cá Ông và Lễ Nghinh Ông của cư dân trong vùng này (Theo Toan Ánh và Nguyễn Văn Huyên).
Cá voi được ngư dân trong vùng này gọi với nhiều danh xưng khác nhau, với danh thần tôn kính như: Ðức Ngư, Ðông Nam Hải, Ông Lớn, Ông Câu, Ông Khơi, Ông Lộng, Ông Thông, Ông Chuông, Ông Máng, Nam Hải Ðại Tướng Quân, Cự Tộc Ngọc Long Tôn Thần. Trong các danh xưng, tên gọi thông dụng nhất là “Cá Ông”.
Ngư dân trong vùng Hội An – Thu Bồn từ lâu vẫn truyền tụng sự tích Cá Voi là Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát Quá Hải hay Ðức Quán Thế Âm Thiên Thủ, Thiên Nhãn, là vị Bồ Tát chuyên cứu khổ, cứu nạn, thường gặp cát tường, viễn ly khổ ách. Ngài cũng thường hóa thân thành “Ông Nam Hải” thường hiện thân đi tuần du ngoài biển khơi. Khi người Hoa sang buôn bán và lập nghiệp, lại thờ thêm Bà Thiên Hậu.
Theo truyền thuyết, phàm thuyền chài lớn hay nhỏ bị những cơn cuồng phong hay bão tố bị đắm, ngư dân ngộ nạn, thì đều thấy Cá Voi đội thuyền, dìu người vào bờ. Thành thử, ngư dân ở đây cứ mỗi lần gặp nạn, hay khi chuẩn bị ra khơi đều đọc lên “12 câu nguyện” (Thập Nhị Ðại Nguyện). Tương truyền đó là lời nguyện của đức Phật Bà Quán Thế Âm dạy cho ngư dân cầu Nam Hải Ðại Vương đến cứu. Sách “Ðại Nam Nhất Thống Chí” (Thừa Thiên phủ) chép: Loại Cá Ông này có các tên: Hải Tù, Bạch Ngư. Vua Gia Long sắc phong là Nam Hải Ðại Tướng Quân, khuyên dân ngư phủ lập đền thờ để cầu đảo.
Hàng năm, ngư dân Hội An thường tổ chức các nghi lễ, hội hè, phong tục, liên quan đến Cá Voi như: Ðám tang Cá Ông, Lễ Thỉnh Ngọc Cốt, Lễ Nghinh Ông, Hội hát Bả Trạo…
Cá Ông chết gọi là “Lụy”. Tương truyền khi Cá Voi “lụy” ngoài khơi, sẽ được Cá Ông khác dìu thi hài vào bờ, chơ khi được ngư dân phát hiện, thì Cá Ông sống mới trở lại biển khơi. Có những tục lệ từng vùng khác nhau. Ở vùng Quảng Ðà, ngư dân mổ xác Cá Ông, đựng trong nhiều quan tài, rồi đem mai táng theo từng hàng. Người nào trông thấy đầu tiên Cá Ông lụy, phải chịu tang như người con trưởng, mặc áo đại tang, đội mũ rơm, thất dây lưng trắng, cầm đuốc đi giật lùi trước linh cữu. Trong thời gian chịu tang thân chủ phải làm đầy đủ các nghi lễ như với tang cha mẹ. Ðó là lễ tạ mộ, lễ 21 ngày mở cửa mộ, lễ cầu siêu, lễ 100 ngày, lễ tiểu tường, lễ đại tường.
Lễ Thượng Ngọc Cốt ở Hội An là hình thức của lễ cải táng, gọi là Thượng Ngọc Cốt hay Thỉnh Ngọc Cốt, đưa hài cốt Cá Ông về dinh vạn chài để thờ. Trước tiên, vị Trưởng lão làm lễ xin đưa Ngọc Cốt về dinh vạn theo quẻ âm dương; sau đó ngư dân cao niên được cử ra đào mộ lên, nhặt lấy xương Cá Ông, rửa bằng nước ngũ vị cho sạch; cuối cùng, ngọc cốt được bọc kỹ trong vải đỏ, đặt vào chiếc quan tài lớn, rước về đền hay chùa.
Ở vùng Hội An, Tân Kỳ, Quảng Ðà, tục thờ Cá Ông kết hợp với diễn xướng hát múa Bả Trạo.
Lễ Nghinh Ông ở Hội An mang ý nghĩa cầu xin Cá Ông phù trì. Lễ Nghinh Ông trước đây tại Hội An được cử hành vào ngày 15 tháng 8 Âm lịch. Nghi lễ, phẩm vật dâng cúng thường là hoa quả, xôi thịt. Không được dùng những loại thủy sản. Lễ Nghinh Ông có 3 giai đoạn : Lễ cúng Tiền Hiền, lễ cúng Hậu Hiền và Chánh Tế; sau đó, tổ chức những cuộc vui chơi, giải trí. Chủ lễ là Vạn trưởng trong vùng.
Khi tổ chức lễ, đoàn thuyền lễ ra khơi, trên thuyền có kết hương án, bài vị thủy tường, treo đèn, kết hoa, dàn nhạc ngũ âm, có đoàn múa hát đứng chầu, tiến đến địa điểm đã được chỉ định. Lễ bắt đầu bằng dâng hương, dâng rượu, dâng trà; sau đó đọc sớ, cầu quốc thái dân an, ngư dân thịnh vượng, phong hòa vũ thuận. Ðoàn ghe quần nhiều lần, chờ cho Cá Ông “lên vọt” như đã chứng giám.
Ðoàn thuyền nghinh Ông về miếu thờ. Ngư dân sắp hàng quỳ lạy, van vái, khẩn cầu. Tiếp theo là lễ Tiền Hiền, Hậu Hiền, cũng theo nghi lễ trên; sau cùng là Chánh Tế, có heo trắng, rượu lễ, dâng hương, tấu nhạc. Hội An còn mời đoàn Hát Bội diễn tích Nam Hải Ðại Tướng Quân.
Hát Bả Trạo tổ chức ngay trong lễ Nghinh Ông. Múa hát Bả Trạo là múa hát nghi lễ, một bộ phận của nghi lễ, khác với loại Hát bội chỉ để mua vui. “Bả” là nắm chắc; “Trạo” là mái chèo. Hát Bả Trạo tổ chức vào dịp Kỵ nhật của Cá Ông, thậm chí cả trong tang lễ Cá Ông. Chủ yếu của lễ hội này là “Tiễn đưa linh hồn Cá Ông về cõi Cực lạc”.
Hội diễn Bả trạo được thực hiện do 3 nhân vật (ông Tổng): Tổng mũi, Tổng khoang và Tổng lái. Một số thanh niên khác phụ họa. Trong loại diễn xướng này, lại còn kết hợp với nghi lễ, múa hát và diễn trò. Tổng mũi là nhân vật chỉ huy con thuyền tượng trưng, Tổng khoang giữ vai trò phụ họa, Tổng lái hướng dẫn đường đi. Người thủ vai Tổng mũi phải biết đủ các thể điệu: ngâm thơ, hò vè, tuồng, lý… để tạo nên bầo không khí “vừa trang nghiêm, vừa rộn ràng” (theo Tôn Thất Bình). Tổng khoang tay cầm gầu tát nước (kiểu tượng trưng) vừa hát, vừa làm động tác, mang tính trào lộng.
Ðây là vở tuồng ngắn: mở đầu trình bày sinh hoạt trên biển; sau đó diễn lại cơn sóng gió; cuối cùng là sự cứu vớt của Cá Ông. Như vậy, lối hát Bả Trạo có đường nét như loại Hò Ðưa Linh. Ðây là loại Dân ca Nghi lễ.
Như thế, sự hỗn dung giữa tín ngưỡng Phật Giáo và tín ngưỡng bản địa đã tạo nên một giá trị bồi đắp tâm linh khởi đầu ở Đàng Trong. Phải đợi cho đến khi các dòng Thiền ở đây phát triển, Phật Giáo bành trướng mạnh mẽ.








