ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP ĐẠI GIỚI ĐÀN HIỂN KỲ 2015 – LONG AN
PHẦN 1
LƯỢC SỬ ĐỨC PHẬT VÀ THÁNH CHÚNG
(Dành chung cho các giới tử thọ giới Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa Ma-na, Sa-di và Sa-di-ni)
1. Hãy cho biết thân thế của Thái tử Tất-đạt-đa?
Phụ thân là đức vua Tịnh-phạn (Suddhodana) thuộc họ Cồ-đàm (Gotama), bộ tộc Thích-ca (Sakya) và thân mẫu là hoàng hậu Ma-gia (Maha Maya) trị vì kinh thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu) thuộc miền Trung Ấn Độ.
2. Thái tử Tất-đạt-đa đản sinh vào thời gian nào, tại đâu?
Thái tử Tất-đạt-đa đản sinh ngày trăng tròn (15 ÂL) tháng 4 (Vesakha) năm 624 trước Dương lịch, bên cội cây Vô Ưu tại vườn Lâm-tỳ-ni (Lumbini), kinh thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu) thuộc miền Trung Ấn Độ.
3. Sau khi dao 4 cửa thành, thái tử đã trình lên vua cha những điều gì nếu vua làm được thì thái tử sẽ không đi tu?
Bốn điều đó là:
Làm sao cho con trẻ mãi không già
Làm sao cho con mạnh hoài không đau
Làm sao cho con sống hoài không chết
Làm sao cho mọi người hết khổ
4. Thái tử Tất-đạt-đa xuất gia vào thời gian nào?
Thái tử từ giả kinh thành Ca-tỳ-la-vệ xuất gia vào ngày trăng tròn (08 hoặc 15) tháng 2 ÂL năm 605 trước Dương lịch (theo Bắc truyền), năm 595 trước Dương lịch (theo Nam truyền).
5. Vì sao thái tử Tất-đạt-đa phát tâm xuất gia?
Sau khi dạo 4 cửa thành, Thái tử thấy cảnh già, bệnh, chết của con người mà nhận thức được nỗi thống khổ của chúng sinh trong vòng sinh tử luân hồi và thấy hình ảnh một vị sa môn thanh cao, giải thoát. Vì lòng từ bi, Ngài phát tâm xuất gia để tìm chân lý giải thoát khổ đau cho tất cả chúng sinh.
6. Hãy cho biết 2 vị Thầy mà thái tử Tất-đạt-đa đã tham học trong khi tấm đạo?
Đó là ông A-đa-la Già-đà-na (Alara Kalama) chứng Vô sở hữu xứ định và Uất-đầu-lam-phất (Uddaka Ramaputta) chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ định.
7. Qua thời gian tầm đạo và khổ hạnh ép xác, thái tử đã giác ngộ được điều gì?
Sau khi trải qua quá trình tầm đạo và tu tập với tinh thần nổ lực cao độ nhưng vẫn chưa đạt được quả vị giác ngộ giải thoát hoàn toàn khổ đau, thái tử nhận ra rằng: hưởng thọ dục lạc thái quá như lúc sống trong hoàng cung hay tu tập khổ hạnh ép xác cùng cực đều không đem lại sự giải thoát hoàn toàn khổ đau. Đó là hai cực đoan cần phải tránh xa. Đây là chân lý Trung đạo.
Như sợi dây đàn, căng quá sẽ bị đứt, dùng quá sẽ không phát ra âm thanh như ý, khi nào độ căng vừa phải thì âm thanh phát ra rất vi diệu. Chỉ có tự nổ lực tu tập thiền định mới đạt được giải thoát tối hậu.
8. Đức Phật dạy về chân lý Trung đạo như thế nào?
Chân lý Trung đạo là sự xa lìa hai cực đoan hưởng thụ dục lạc và khổ hạnh ép xác, tu tập theo Bát Chánh Đạo.
Đức Phật dạy:
“Hỡi này các Tỳ-kheo, có hai cực đoan mà hàng xuất gia phải tránh:
Sự dễ duôi trong dục lạc là thấp hèn, thô bỉ, phàm tục, không xứng đáng phẩm hạnh của bực Thánh nhân và vô ích.
Sự thiết tha gắn bó trong lối tu khổ hạnh, là đau khổ, không xứng đáng phẩm hạnh của bực Thánh nhân và vô ích.
Từ bỏ hai cực đoan ấy, Như Lai đã chứng ngộ con đường Trung đạo (Majjhima Patipada), là con đường đem lại nhãn quan và tri kiến và đưa đến an tịnh, trí tuệ cao siêu, giác ngộ và Niết Bàn.
Hỡi này các Tỳ-kheo, con đường Trung đạo mà Như Lai đã chứng ngộ, con đường đem lại nhãn quan và tri kiến và đưa đến an tịnh, trí tuệ cao siêu, giác ngộ và Niết Bàn là gì?
Chính là Bát Chánh Đạo là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định. Hỡi này các Tỳ-kheo, đó là con đường Trung đạo mà Như Lai đã chứng ngộ”. (Đức Phật và Phật pháp, trang 94).
9. Thái tử Tất-đạt-đa thành đạo vào thời gian nào, tại đâu, lúc đó Ngài bao nhiêu tuổi?
Thái tử thành đạo vào ngày trăng tròn (08 hoặc 15) tháng 12 ÂL năm 594 trước Dương lịch (theo Bắc truyền), tháng 2 năm 589 trước Dương lịch (theo Nam truyền).
Ngài thành đạo tại cội Bồ-đề, nên dòng sông Ni-liên-thuyền (Niranjara), xứ Ma-kiệt-đà (Magadha).
Lúc đó, Ngài 30 tuổi (theo Bắc truyền), 35 tuổi (theo Nam truyền).
10. Hãy cho biết quá trình giác ngộ của thái tử Tất-đạt-đa sau 49 ngày thiền định dưới cội Bồ-đề?
Canh một: Ngài đã chứng ngộ Túc mệnh minh
Canh hai: Ngài đã chứng ngộ Thiên nhãn
Canh ba: Ngài đã chứng ngộ Lậu tận minh và lục thông.
Canh năm: Ngài quán chiếu chân lý duyên khởi theo 2 chiều luân chuyển và hoàn diệt. Lúc sao mai vừa mọc, ngài đã đạt trí tuệ toàn giác, chứng đắc Vô Thượng, Chánh Đẳng Giác, thành Phật.
11. Hãy kể Tam minh và Lục thông?
Tam minh là:
– Túc mệnh minh (thấy rõ vô lượng kiếp quá khứ của mình).
– Thiên nhãn minh (thấy rõ vô lượng kiếp quá khứ của chúng sinh).
– Lậu tận minh (diệt trừ hoàn toàn lậu hoặc, phiền não đau khổ, không còn tái sinh nữa)
Lục thông là:
– Túc mệnh thông (thấu rõ vô lượng kiếp quá khứ không ngăn ngại).
– Thiên nhãn thông (mắt thấu suốt không ngăn ngại).
– Thiên nhĩ thông (tai nghe rõ không ngăn ngại).
– Thần túc thông (bay đi tự tại không ngăn ngại).
– Tha tâm thông (thấu rõ tâm chúng sinh không ngăn ngại).
– Lậu tận thông (đoạn trừ tất cả phiền não đau khổ).
12. Hãy cho biết sự luân chuyển của 12 nhân duyên?
Do cái này có mặt nên cái kia có mặt.
Do cái này sinh nên cái kia sinh.
Do vô minh sinh nên hành sinh, do hành sinh nên thức sinh, do thức sinh nên danh sắc sinh, do danh sắc sinh nên lục nhập sinh, do lục nhập sinh nên xúc sinh, do xúc sinh nên thọ sinh, do thọ sinh nên ái sinh, do ái sinh nên thủ sinh, do thủ sinh nên hữu sinh, do hữu sinh nên sinh sinh, do sinh sinh nên lão tử ưu bi khổ não sinh.
13. Hãy cho biết sự hoàn diệt của 12 nhân duyên?
Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt.
Do cái này diệt nên cái kia diệt.
Do vô minh diệt hành diệt, do hành diệt nên thức diệt, do thức diệt nên danh sắc diệt, do danh sắc diệt nên lục nhập diệt, do lục nhập diệt nên xúc diệt, do xúc diệt nên thọ diệt, do thọ diệt nên ái diệt, do ái diệt nên thủ diệt, do thủ diệt nên hữu diệt, do hữu diệt nên sinh diệt, do sinh diệt nên lão tử ưu bi khổ não diệt.
14. Sau khi thành đạo, đức Phật ngồi suy nghiệm chân lý nơi cội Bồ-đề trong bao lâu?
Sau khi thành đạo, đức Phật không đi thuyết pháp mà Ngài ngồi suy nghiệm chân lý dưới cội Bồ-đề trong 7 tuần.
15. Vì sao khi thành đạo, đức Phật chưa quyết định thuyết pháp?
Vì Ngài nhận thấy chúng sinh căn tánh mê muội đầy tham chấp nên khó thấu hiểu lời Ngài dạy để tu tập.
Đức Phật dạy: “Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người có trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng nầy thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý ‘duyên khởi ra các pháp’ (Paticcasamuppada): sự kiện nầy thật khó thấy, tức là sự tịnh chỉ tất cả các hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp thì các người khác không hiểu Ta, …” (Kinh Trung Bộ 1, HT Thích Minh Châu dịch, trang 268 – 269).
16. Sau khi thành đạo, đức Phật chưa quyết định thuyết pháp độ sinh, ai đã cung thỉnh Ngài thuyết pháp?
Vị Phạm Thiên tên là Sa-ham-pa-ti (Sahampati) cung thỉnh đức Phật thuyết pháp. Đức Phật quán chiếu hồ sen có nhiều chủng loại cao thấp khác nhau, cũng vậy chúng sinh có nhiều căn tánh khác nhau, tùy theo khả năng tiếp nhận giáo lý tu tập nên Ngài hoan hỷ nhận lời cầu thỉnh thuyết pháp.
17. Tam Bảo được hình thành từ lúc nào?
Tam Bảo được hình thành từ khi đức Phật thuyết bài pháp Tứ Diệu Đế (bài pháp đầu tiên) tại vườn Lộc Uyển cho 5 anh em Kiều-trần-như.
18. Hãy cho biết những vị đệ tử xuất gia đầu tiên của đức Phật?
Những vị đệ tử xuất gia đầu tiên của đức Phật là 5 anh em Kiều-trần-như.
19. Đoàn giảng sư đầu tiên của đức Phật gồm có bao nhiêu vị?
Đoàn giảng sư đầu tiên của đức Phật gồm có 60 vị Thánh Tăng (A-la-hán).
20. Vua Tịnh-phạn cử bao nhiêu phái đoàn đi thỉnh đức Phật về thăm hoàng cung lần thứ nhất? Ai là người thỉnh được Ngài về hoàng cung?
Vua Tịnh-phạn cử 9 phái đoàn thỉnh đức Phật về thăm hoàng cung lần thứ nhất.
Tôn giả Ca-lưu-đà-di (Kaludayi, sinh cùng giờ, ngày, tháng, năm với đức Phật) là người thỉnh đức Phật về thăm hoàng cung lần thứ nhất. Đức Phật vừa đi vừa thuyết pháp trải qua 2 tháng với quãng đường khoảng 600km.
21. Đức Phật về thăm hoàng cung lần thứ 2 vào lúc nào? Nhân duyên gì Ngài về thăm hoàng cung?
Đức Phật về thăm hoàng cung lần thứ 2 vào năm thứ 5 sau khi thành đạo.
Lúc này, vua Tịnh-phạn đã 90 tuổi, sắp băng hà. Đức Phật đã thuyết chân lý vô thường, vua đắc thánh quả A-la-hán.
22. Ai đức ra chủ lễ trà tỳ vua Tịnh-phạn?
Đức Phật tự thân tắm gội, khâm liệm, thắp lửa trà tỳ nhục thân vua cha.
23. Đức Phật thuyết pháp độ mẫu thân ở đâu, khi nào?
Đức Phật thuyết pháp độ mẫu thân là hoàng hậu Ma-gia tại cung trời Đao Lợi (Tavatimsa) vào mùa An cư Kiết hạ thứ 7.
24. Hãy kể tên và công hạnh của Thập đại đệ tử Phật?
– Tôn giả Xá-lợi-phất trí tuệ đệ nhất
– Tôn giả Mục-kiền-liên thần thông đệ nhất
– Tôn giả Đại Ca-diếp khổ hạnh đệ nhất
– Tôn giả A-nan đa văn đệ nhất
– Tôn giả Phú-lâu-na thuyết pháp đệ nhất
– Tôn giả Tu-bồ-đề giải không đệ nhất
– Tôn giả Ca-chiên-diên nghị luận đệ nhất
– Tôn giả A-na-luật thiên nhãn đệ nhất
– Tôn giả Ưu-ba-ly trì giới đệ nhất
– Tôn giả La-hầu-la mật hạnh đệ nhất
25. Vị sa-di đầu tiên trong giáo đoàn của đức Phật là vị nào?
Tôn giả La-hầu-la, lúc Ngài mới 7 tuổi.
26. Vị tôn giả nào cung thỉnh đức Phật cho nữ giới được xuất gia và thành lập Ni đoàn?
Sau khi Di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề và Da-du-đà-la nhiều lần thỉnh cầu đức Thế Tôn cho phép xuất gia nhưng không được, tôn giả A-nan đã cầu thỉnh Ngài cho nữ giới được xuất gia. Đức Thế Tôn đã nhận lời với yêu cầu Ni giới phải giữ gìn 8 kỉnh pháp.
27. Hãy cho biết vị nào lãnh đạo giáo đoàn Ni của đức Phật?
Nữ tôn giả Ma-ha Ba-xà-ba-đề Kiều-đàm-di (Maha Pajapati Gotami),
Thuộc vương tộc Maha Suppa Buddha (Thiện Giác, em của hoàng hậu Maha Maya. Gotami làm kế mẫu của thái tử Tất-đạt-đa sau khi hoàng hậu Maha Maya sinh thái tử 7 ngày đã sinh về cõi trời Đao Lợi.
Khi Đức Phật về thăm hoàng cung Ca-tỳ-la-vệ lần thứ nhất, đức Phật thuyết bài pháp Túc sanh truyện, bà đắc quả Tu-đà-hoàn (lúc đó, vua Tịnh-phạn nghe bài pháp này đã đắc quả A-na-hàm).
Sau, Tỳ-kheo-ni Kiều-đàm-di đã đắc quả A-la-hán và được Thế Tôn giao lãnh đạo Ni đoàn, được khen ngợi là Hạ lạp bậc nhất.
28. Hãy nêu Bát kỉnh pháp?
1) Tỳ-kheo-ni dù đã được trăm hạ cũng phải kính trọng và đảnh lễ vị Tỳ-kheo mới xuất gia (Ðức Thế Tôn ra điều học nầy để răn các Tỳ-kheo-ni bớt lòng ngã mạn khinh người).
2) Tỳ-kheo-ni không thể nhập hạ nơi nào không có chư Tỳ-kheo (Ðức Phật ra điều học nầy để chư Tỳ-kheo bảo vệ và hỗ trợ Tỳ-kheo-ni ).
3) Tỳ-kheo-ni phải thỉnh chư Tỳ-kheo giáo huấn mỗi nửa tháng vào kỳ sám hối.
4) Tỳ-kheo-ni phải làm lễ tự tứ (ra hạ) bên Ni xong phải đến đảnh lễ làm nghi thức tự tứ trước chư Tỳ-kheo.
5) Nếu Tỳ-kheo-ni đã phạm Tăng tàng phải sám hối trước Chư Tăng và Ni.
6) Giới tử xuất gia muốn thọ giới Tỳ-kheo-ni phải đối trước Chư Tăng và Ni lãnh thọ.
7) Tỳ-kheo-ni không được chỉ trích và nặng lời với chư Tỳ-kheo.
8) Tỳ-kheo có quyền giáo huấn chư Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo-ni không có quyền giáo huấn vị Tỳ-kheo.
29. Vị vua nào diện kiến đức Phật đầu tiên?
Bình-sa vương hay Tần-bà-sa-la (Bimbisara) là vị vua đầu tiên diện kiến đức Phật và là người dâng cúng Trúc Lâm Tịnh Xá (Veluvana).
30. Vị đệ tử thiện nam, đại thí chủ, đại hộ pháp của đức Phật là ai?
Trưởng giả Cấp-cô-độc, ông vốn tên là Tu-đạt (Sudatta) nhưng vì ông có lòng thương người, đặc biệt chăm lo hỗ trợ người cô độc khó khăn nên mọi người quý mến gọi ông là Cấp-cô-độc (Anàthapindika). Người phát tâm dâng cúng Tịnh xá Kỳ Hoàn (Jetavana).
31. Vị đệ tử tín nữ, đại thí chủ, đại hộ pháp của đức Phật là ai?
Tín nữ Visakha còn được gọi là mẹ hiền Migàra hay Thánh nữ Migàra (chồng là Trưởng giả Migàra) do không chỉ hết lòng hộ trì Tam Bảo mà còn có lòng thương người, bố thí rộng khắp. Cô trở thành tín nữ hộ pháp đắc lực của đức Phật, sánh như trưởng giả Cấp-cô-độc.
Tín nữ là người cúng dường Tịnh xá Đông Viên (phía Đông Tịnh xá Kỳ Viên) lên đức Phật.
32. Vị đệ tử xuất gia cuối cùng của đức Phật là vị nào?
Vị đệ tử xuất gia cuối cùng của đức Phật là Tôn giả Tu-bạt-đà-la (Subhadda).
Phật dạy: “Này Subhadda, người sống trong hệ thống giáo lý khác muốn xuất gia làm sa di và tỳ khưu phải trải qua một thời kỳ học tập 4 tháng, sống biệt trú trong bốn tháng ấy. Sau đó, khi được chấp thuận, giới tử có thể thọ lễ xuất gia và được nâng lên hàng tỳ khưu. Tuy nhiên, do sự hiểu biết của con hôm nay, Như Lai cho phép làm một ngoại lệ cho riêng cá nhân con.”
Ngài bảo tôn giả A-nan truyền giới Tỳ-kheo cho Tu-bạt-đà-la.
Không bao lâu, với sự tinh tấn tu tập Tu-bạt-đà-la đã chứng thánh quả A-la-hán.
33. Người dâng cúng bửa ăn và tọa cụ lên đức Thế Tôn (trước khi Ngài thành đạo) là ai?
Nữ tín chủ Tu-xà-đề (Sujata) dâng cúng bửa ăn trước khi đức Thế Tôn thành đạo.
ậu bé Svastika (cậu bé chăn cừu ở làng này) rất mến mộ Ngài và phát tâm hàng ngày cắt loại cỏ nhuyễn và mịn trải làm tọa cụ cho Ngài ngồi.
34. Người dâng cúng bửa ăn cuối cùng lên đức Thế Tôn (trước khi Ngài nhập Niết-bàn) là ai?
Người dâng cúng bửa ăn cuối cùng lên đức Thế Tôn (trước khi Ngài nhập Niết-bàn) là người thợ rèn Thuần-đà (Cunda) ở Pava. Ông dâng cúng đức Phật bát cháo nấm.
35. Đức Phật đã thuyết pháp độ sinh bao nhiêu năm?
Đức Phật đã thuyết pháp độ sinh 49 năm (theo Bắc truyền), 45 năm (theo Nam truyền).
36. Chân lý đức Phật dạy chia làm mấy phần?
Chân lý đức Phật dạy chia làm 03 phần, còn gọi là 3 tạng giáo điển, gồm Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng.
37. Những lời dạy cuối cùng của đức Phật gồm các điều căn bản gì?
Những lời dạy cuối cùng của đức Phật bao gồm 03 điều căn bản sau:
– Sống đúng chánh pháp là cách đảnh lễ, tán thán và quý mến Như Lai một cách tốt đẹp nhất.
– Phật dạy: “ … Nhưng bất cứ Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni nào, Ưu bà tắc hay Ưu bà di nào mà sống đúng với Chánh pháp, tự mình ứng xử hợp với đạo, có hành động chân chánh, thì chính người đó tôn trọng, đảnh lễ, tán thán và quý mến Như Lai một cách tốt đẹp nhất” (Đức Phật và Phật pháp, Narada, Phạm Kim Khánh dịch, NXB TP HCM 2008, trang 227).
– Hãy nương tựa vào chánh pháp, nương tựa vào chính mình.
Phật dạy: Phật dạy: “Dầu ngay trong hiện tại hay sau khi Như Lai nhập diệt, người nào sống đúng theo như vậy, xem chính mình là hải đảo của mình, là chỗ nương tựa của mình, không tìm nương tựa đâu bên ngoài, những vị tỳ khưu ấy sẽ đứng hàng đầu trong những người sống hoàn toàn theo Giới Luật.” (Đức Phật và Phật pháp, Narada, Phạm Kim Khánh dịch, NXB TP HCM 2008, trang 209).
“Vậy, này Ananda, hãy tự coi chính con là hải đảo (chỗ ẩn náu) của con, chính con là chỗ nương tựa của con. Không nên tìm nương tựa bên ngoài. Hãy xem Giáo Pháp là hải đảo của con. Giáo Pháp là chỗ nương tựa của con. Không nên tìm nương tựa ở bên ngoài. (Đức Phật và Phật pháp, Narada, Phạm Kim Khánh dịch, NXB TP HCM 2008, trang 209).
– Lấy giới luật làm Thầy dẫn đường.
38. Phật dạy có 4 thánh tích cần chiêm bái như là lễ lạy Ngài, đó là những thánh tích nào?
Phật dạy 4 thánh tích cần chiêm bái sau khi đức Như Lai nhập Niết-bàn, chúng sinh đảnh lễ 4 thánh tích như là đảnh lễ Ngài. Bốn thánh tích đó là:
– Nơi đức Phật giáng sinh tại vườn Lâm-tỳ-ni (Lumbini) thuộc kinh thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavattu).
– Nơi đức Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya) thuộc nước Ma-kiệt-đà (Magadha).
– Nơi đức Phật chuyển Pháp luân tại vườn Nai (Sarnàth) gần Na-la-nại (Benarès).
– Nơi đức Phật nhập Niết-bàn tại rừng Sa-la song thọ thuộc Câu-thi-na (Kusinàra).
Đức Phật dạy rằng: “Những người nào qua đời trong quá trình đi chiêm bái, với lòng có đức tin, thì sẽ được sanh lên các cõi trời” (Đức Phật và Phật pháp, Narada, Phạm Kim Khánh dịch, NXB TP HCM 2008, trang 228).
39. Đức Phật nhập Niết-bàn lúc nào, tại đâu?
Đức Phật nhập Niết-bàn vào lúc Ngài 80 tuổi, vào năm 544 trước Dương lịch, tại rừng Sa-la song thọ, thành Câu-thi-na (Kusinara).
40. Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn theo tư thế nào?
Đức Thế Tôn nằm giữa hai cây sa-la, mình nghiêng bên phải, đầu hướng phía Bắc.
41. Kim quan đức Thế Tôn lưu lại mấy ngày mới trà tỳ? Vì sao?
Kim quan đức Thế Tôn lưu lại 07 ngày mới trà tỳ, vì đợi tôn giả Đại Ca-diếp đang du hóa ở phương xa trở về.
42. Xá-lợi đức Phật sau khi trà tỳ được chia làm mấy phần? Có bao nhiêu tháp thờ xá-lợi?
Xá-lợi đức Phật sau khi trà tỳ được chia làm 8 phần cho 8 nước.
Có 10 tháp được dựng lên, trong đó, 8 tháp thờ xá-lợi ở mỗi quốc gia, 1 tháp dựng lên nơi để bình phân chia xá-lợi và 1 tháp thờ tro của giàn hỏa thiêu.
43. Vị nào thừa kế y bát đức Thế Tôn và vai trò lãnh đạo giáo đoàn sau khi Ngài nhập Niết-bàn?
Tôn giả Đại Ca-diếp thừa kế y bát của đức Thế Tôn và lãnh đạo giáo đoàn.
45. Đại hội kết tập kinh điển lần 1 sau khi Phật nhập Niết-bàn bao lâu? Do ai chủ toạ? Tại đâu?
– Đại hội kết tập kinh điển lần 1 sau khi Phật nhập Niết-bàn 3 tháng, do tôn giả Đại Ca-diếp chủ toạ, tại núi Kì-xà-quật, ngoài thành Vương Xá, nước Ma-kiệt-đà.
46. Vị nào phụ trách trùng tuyên Kinh tạng trong Đại hội kết tập giáo điển lần thứ nhất?
Tôn giả A-nan phụ trách trùng tuyên Kinh tạng trong Đại hội kết tập giáo điển lần thứ nhất.
47. Vị nào phụ trách trùng tuyên Luật tạng trong Đại hội kết tập giáo điển lần thứ nhất?
Tôn giả Ưu-ba-ly phụ trách trùng tuyên Luật tạng trong Đại hội kết tập giáo điển lần thứ nhất.
48. Giáo lý Phật dạy được kết tập ghi lại bằng mấy ngôn ngữ chính?
Giáo lý Phật dạy được kết tập ghi lại bằng 2 ngôn ngữ chính: Pa-li (Nam Phạn) và Sanskrit(Bắc Phạn).
49. Sau khi đức Thế Tôn nhập Niết-bàn, đạo Phật được truyền sang các nước theo mấy hướng chính?
Sau khi đức Thế Tôn nhập Niết-bàn, đạo Phật được truyền sang các nước theo 2 hướng chính là hướng Nam và hướng Bắc.
50. Phật giáo Nam truyền là gì?
Phật giáo Nam truyền còn gọi là Phật giáo Nguyên thỉ, là Phật giáo được truyền về hướng Nam, gồm các nước Thái Lan, Miến Điện, Lào, Cam-pu-chia 51. Phật giáo Bắc truyền là gì?
Phật giáo Bắc truyền còn gọi là Phật giáo phát triển, là Phật giáo được truyền về hướng Bắc, gồm các nước như Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản …
Ban Hoằng Pháp GHPGVN tỉnh L.A








