Trang chủ PGVN Cửa thiền Chùa núi Hòa Quang

Chùa núi Hòa Quang

Cách đây không lâu, tôi có duyên được mời dự lễ khánh thành chùa Hòa Quang. Nói có duyên vì trước đây tôi vốn ít đi chùa nhưng nhờ lần đó mà tôi đã lui tới chùa và gắn bó với nơi đây. Đó là một ngôi chùa cổ vừa được xây mới, tọa lạc ở vùng núi thuộc thôn Phú Nham, xã Duy Sơn, Duy Xuyên, Quảng Nam.


Đến nơi, tôi đã bị thu hút ngay trước một không gian khoáng đạt và bầu không khí mát mẻ yên tĩnh! Nét độc đáo, đập ngay vào mắt và tạo nên sức lôi cuốn của ngôi chùa là phong cách hài hòa giữa cổ kính với hiện đại.


Mặc dù kết cấu bằng bêtông nhưng thiết kế mái cong giao long cùng các hoa văn, họa tiết trên các con sơn đỡ mái và hành lang cầu thang với những chiếc độc bình đơn giản nhưng mềm mại, tạo cho toàn bộ cấu trúc một dáng vẻ uyển chuyển.


Hệ thống cửa lớn, cửa sổ đều bằng gỗ, đai cửa cong duyên dáng, mềm mại, cộng với gam màu lam nhạt của tường hài hòa với cảnh quan vùng núi đồi. Tôi phóng tầm mắt nhìn quanh, một không gian dàn trải bao phủ toàn màu xanh, phía trước là núi màu xanh thẫm.


Xung quanh trước và sau chùa là màu đậm nhạt của vườn cây ăn trái, của giàn bầu, bí, đậu. Những chậu cây cảnh với nhiều dáng vẻ ấn tượng. Sân trước sân sau và lối đi quanh chùa dẫn ra vườn và các công trình đều trải bằng những tấm bêtông vuông vắn. Tất cả đều tinh tươm, sạch sẽ, ngăn nắp.


Bởi buổi lễ khánh thành đầy ấn tượng ấy, cũng có thể bởi một lý do nào đó, tôi trở lại chùa nhiều lần. Trong một lần đến thăm chùa vào dịp Tết cùng với mấy người bạn, ni sư trụ trì, như đoán trước đã ngồi sẵn đấy đón chúng tôi ở bàn khách bên gian trái chánh điện.


Ni sư mời chúng tôi uống nước, ăn bánh, vẫn với dáng điệu tươi tỉnh. Sư còn kéo chúng tôi ra sân trước để khoe hai cây mai vừa bứng ngoài đất cho vào chậu, đặt trước phòng mình để ngắm nghía. Ni sư hỏi tôi xem thế thần ra sao, có được không?


Cây cảnh, nhất là mai qua tay Sư ai còn dám phẩm bình, khác nào “khen phò mã tốt áo!”. Tôi cười đáp. Thật ra hai cây mai thế trực, dáng huyền, nhánh phân đều, gốc vững với ba bốn chiếc rễ lộ thiên trải quanh gốc, tạo thế chân vạc trông khỏe mạnh, chỉ có mấy cành đâm thẳng làm cây thiếu cân xứng.


Tôi nêu nhận xét trên, Sư đồng tình và nhờ tôi chỉnh. Tôi nhận chiếc kéo từ một Sư cô định đưa tay bấm, thoáng một ý nghĩ bỗng khởi lên:


– Trước đây, có người thắc mắc rằng cây cối cành cao cành thấp, thân cong thân thẳng tự nhiên giữa đất trời, sao con người lại đang tâm thô bạo cắt tỉa uốn rồi còn ép vào chầu, như thế có làm cây đau đớn? Theo giáo lý nhà Phật, cây cối cũng là chúng sinh bình đẳng, làm thế liệu có tội chăng?


– Khi cắt tỉa uốn cây chú thấy thế nào, có mang tâm giận hờn hay oán thù gì cây không? Và sau khi cắt tỉa uốn, cây có đẹp hơn trước, có tạo được dáng vẻ tự nhiên, gây sự thích thú cho người ngắm chăng? Mọi việc đều xuất phát từ tâm! Ni sư ôn tồn giải thích.


Tôi thấy quả là vậy. Song không khỏi băn khoăn, phải chăng cây cối cũng có cảm giác, cũng biết vui buồn đau đớn! Nếu không, tại sao có người bảo: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ! (Nguyễn Du). Thấy tôi có vẻ chưa thông, Ni sư dẫn tiếp:


– Khi người bác sỹ đưa dao, kéo cắt một bộ phận của cơ thể bệnh nhân hẳn biết rõ thân chủ mình đau đớn, nhưng để cứu bệnh nhân phải cắt bỏ phần bị hư, khối u chẳng hạn! Sửa chữa một cây trở nên đẹp, nhằm tạo cảm giác vui tươi thích thú cho mọi người, làm sao có thể nói tội lỗi. Mọi tốt xấu, đúng sai đều xuất phát từ tâm!


Đến đây thì Sư cô phó trụ trì ra mời Ni sư vào nghỉ và mời chúng tôi vào nhà uống nước. “Không mấy khi lên chùa tìm nơi nghỉ ngơi thư giãn, lại ở ngoài nắng nôi, mải lo chuyện cây kiểng!”, Sư cô thân thiện nhắc.


Tôi thật sự xúc động trước sự ân cần của Sư trụ trì và thái độ mến khách của chư Ni nơi đây, lần nào đến đây cũng như được trở về nhà, được tiếp đãi tử tế, được ăn một bữa cơm chay thật ngon. Mười bữa như một được Sư phó trụ trì chuyện vãn suốt buổi trưa.


Qua đó tôi hiểu được vai trò, vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng của cổ tự này đối với cư dân nơi đây. Chùa đã trải qua bao thăng trầm hơn 500 năm qua. Vào thế kỷ XV đời Hồng Đức, kỷ yếu không ghi rõ chính xác năm nào, có thể trong vòng 20 năm từ năm 1470 – 1492, một vị quan triều Lê đến núi Hoàng Châu, chọn một gò đất hẻo lánh ở ấp Phú Mỹ dựng một am tranh để tu hành.


Gần 100 năm sau, dân làng đã biến thảo am thành ngôi chùa làng có tên Phổ Quang, giao cho ông Sằng ở từ, nên một dạo cũng có tên là chùa ông Sằng. Sau đó chùa đổi tên là Hòa Quang mà hiện bia đá chùa còn ghi.


Đến năm 1975, sau khi đất nước giải phóng, dân làng dời chùa về vị trí cũ. Một ngôi chùa bằng phên tre mái tôn nhưng trong chính điện đã thiết trí gian giữa thờ tượng Bổn Sư, hai bên thờ Bồ tát Quán Thế âm và Bồ tát Địa Tạng.


Để đáp ứng nhu cầu tu học của Phật tử và nhân dân địa phương, Ban Đại diện chùa đã đề đơn lên Tỉnh Giáo hội xin thỉnh trụ trì, Giáo hội đã cung cử Ni sư Thích nữ Hạnh Đạo, người con của đất Duy Sơn về làm trụ trì chùa Hòa Quang…


Lúc mới đến, thú thật tôi không khỏi ngạc nhiên và thắc mắc tại sao nơi đây vùng núi rừng, dân không đồng, đời sống còn nhiều khó khăn, làm nương rẫy chủ yếu dựa vào nước trời, lại xây dựng được ngôi chùa quy mô bề thế! Có cần thiết chăng?


Nhưng khi chợt nhìn thấy bóng dáng chiếc áo lam của mấy Sư cô thấp thoáng dưới tàng cây, người đang cuốc đất, người đang tưới nước trồng rau cải, chăm bón giàn phong lan, một Sư cô đang mải miết trên chiếc máy khâu để may áo tràng, pháp phục. Bên kia mấy chị Phật tử áo đà đang cặm cụi ngồi xe hương. Một số khác (theo sư cô phó trụ trì cho biết) hiện đang đốn củi trên rừng đến tận trưa mới về.


Mọi người không quản ngại khó nhọc, không nề hà gian khổ, nỗ lực lao động để tự lực tu học, đồng thời tạo điều kiện cho gần phân nửa Ni chúng hiện đang theo học tại các trường trung, cao cấp Phật học ở nhiều nơi!


Trong bối cảnh xã hội hiện nay với hoàn cảnh đặc biệt của địa phương nơi đây, tôi mới thấy vị trí, vai trò ngôi chùa quan trọng biết bao! Và hình ảnh chiếc áo lam, bên cạnh chiếc áo đà dưới bầu trời xanh, đẹp đến nhường nào!