Trang chủ Văn hóa Hát văn: Vẻ đẹp tâm hồn trong cõi thiêng

Hát văn: Vẻ đẹp tâm hồn trong cõi thiêng

Dựa trên những làn điệu hát chầu văn truyền thống, nhân dân ta không ngừng sáng tạo ra những lời ca mới, ca ngợi cuộc sống mới và những ước nguyện về một cuộc sống thanh bình, no đủ… Nhiều sáng tạo mới đã được thể hiện trong Liên hoan Hát văn – hát chầu văn khu vực Đồng bằng sông Hồng lần thứ nhất vừa diễn ra tại Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên, Vĩnh Phúc (26 và 27-3).

Hát văn – hồn dân tộc

Cách đây khoảng 4 năm, Trung tâm nghiên cứu phát huy và bảo tồn văn hóa dân tộc tổ chức một buổi giới thiệu về nghệ thuật âm nhạc truyền thống, có sự góp mặt của GS Trần Văn Khê. Ngày đó, GS Trần Văn Khê vẫn đi lại giữa hai đất nước Việt Nam và Pháp, chứ chưa ở hẳn tại quê hương như bây giờ. Trong buổi gặp gỡ đó, đông đảo các nhà nghiên cứu và giới báo chí được ông kể lại những câu chuyện cũng như “phương thức” ông giới thiệu âm nhạc truyền thống của Việt Nam ở khắp các nước châu Âu, châu Á. Cũng tại buổi đó, một tiết mục âm nhạc truyền thống được ban tổ chức giới thiệu là vô cùng độc đáo đã diễn ra – đó là tiết mục hát chầu văn, do nghệ sĩ Thanh Ngoan, NSƯT Phạm Văn Ty cùng một số diễn viên khác biểu diễn. Ngay khi các nghệ sĩ dừng tiếng đàn, hát, đứng bên cạnh tôi, một  người nước ngoài thốt lên rằng: Không ở đâu lại có loại âm nhạc mà tiết tấu nhanh, chững chạc, đĩnh đạc kết hợp với những điệu Xá độc đáo như hát chầu văn của Việt Nam!

Biểu diễn hát chầu văn trong Liên hoan Hát văn – hát chầu văn khu vực Đồng bằng sông Hồng.

Thấy lời ca ngợi thật hay về âm nhạc truyền thống của đất nước mình, mà lại từ miệng của một "anh Tây" nói tiếng Việt khá rõ, tôi đã chớp ngay cơ hội, mới vỡ lẽ từ năm 1994, Barley Norton (sinh năm 1971 – giảng viên âm nhạc Đại học Tổng hợp Roehampton, Anh) đã tới Việt Nam để nghiên cứu về âm nhạc truyền thống. Cùng với việc nghiên cứu ca trù của người Việt để làm luận án Tiến sĩ, “Barley đã từng rất thành công khi đàn và hát “Bà chúa Thượng Ngàn” trong những buổi chầu ở Phủ Giầy, đền Dâu… Bà con yêu mến Barley, yêu mến ông cung văn người nước ngoài này lắm!" – Đó là lời của NSƯT Phạm Văn Ty khi nói về cậu học trò Tây của mình. Những kết cấu cơ bản của chầu văn, sự biến đổi ngẫu nhiên của làn điệu Xá, các điệu hát riêng cho mỗi bà như "Tam Tòa", "Cô Chín Sổng", "Cô Bé", "Cô Thượng Ngàn", "Cô Ba Thoải", hoặc của các quan như "Quan Hoàng Chín", "Quan Hoàng Mười", "Ông Hoàng Bảo Hà", "Ông Hoàng Đệ Tam"… Các bài hát trong chầu văn, được nghe trong lúc người lên đồng vừa hát vừa múa khi ông hoàng bà chúa nhập vào… Những cuộc tiếp xúc liên tục với hàng chục nghệ nhân tên tuổi trong Nam ngoài Bắc cùng việc tiếp cận tư liệu của một số học giả như Đỗ Thanh Hà, Nguyễn Văn Huyên và một số học giả người Pháp đã giúp Barley hoàn chỉnh luận án tiến sĩ của mình về hát văn và bảo vệ thành công năm 2000 tại trường đại học anh giảng dạy. Mới đây, Barley đã ra mắt cuốn sách: “Songs for the spirits: Music and mediums in modern Vietnam” (Những bài hát cho thần thánh: Âm nhạc hầu đồng ở Việt Nam hiện đại).

Thực tế thì trong nhiều năm qua, hát văn-hát chầu văn đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước dày công tìm hiểu với nhiều khía cạnh mà đến nay vẫn chưa có nhiều tài liệu lý giải hết ý nghĩa. Chầu văn cổ truyền là một loại hình nghệ thuật đàn – hát đặc biệt, được sinh ra từ hầu đồng – một di sản về văn học, âm nhạc, vũ đạo, mỹ thuật, kiến trúc, lễ hội dân gian và nghệ thuật trình diễn… Chầu văn có nghĩa: Văn chầu Thánh. Hát chầu văn nghĩa là hát những bài văn để chầu Thánh. Tất cả những yếu tố này đã tạo cho hát chầu văn một diện mạo sinh động, phong phú và đa dạng, khó có thể loại âm nhạc dân gian nào so sánh được.

Trong âm nhạc, hát chầu văn ở miền Bắc có những làn điệu quen thuộc của hát chèo, ca trù, hát xẩm xoan… Các đối tượng chầu của chầu văn cổ truyền là những nhân vật trong tín ngưỡng tứ phủ gồm có Mẫu Thượng thiên (Mẹ trên trời, mặc áo đỏ), Mẫu Địa (Mẹ đất, mặc áo vàng), Mẫu Thượng ngàn (Mẹ núi rừng, mặc áo xanh lá cây), Mẫu Thoải (Mẹ nước, mặc áo trắng), ngoài ra còn có các quan hoàng, các cô và các cậu. Trên hết trong số các vị ấy là Đức thánh Trần (tức Trần Hưng Đạo) và Bà Chúa Liễu Hạnh.

Không gian của chầu văn cổ truyền là nơi trước điện thờ. Hát chầu văn trong các đền, phủ, miếu thường có kết hợp với hầu bóng (nhập vai mẫu hay một chư vị thần thánh nào đó). Người xưa quan niệm đó là một phương cách hữu hiệu để mọi người có thể giao tiếp với các mẫu, với các chư vị nhân thần để bày tỏ nguyện vọng và nỗi niềm thầm kín. Đặc biệt, các mẫu trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam là biểu tượng có cội nguồn từ sâu thẳm nơi ký ức của cả cộng đồng dân tộc.

Hát văn-Một loại hình âm nhạc cổ truyền gần gũi

Từ trong các đền, phủ, miếu, với vai trò là một phương tiện nghệ thuật phục vụ tín ngưỡng, nghệ thuật hát chầu văn đã “chuyển mình”, được đưa lên sân khấu, biểu diễn ở các lễ hội để đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa nghệ thuật của đông đảo nhân dân. Đã có người nhận xét: “Người đương thời hát dân ca theo tâm trạng và nhạc điệu của thời đại mình”. Hát văn không nằm ngoài quy luật đó. Hát văn ngày nay không chỉ bó hẹp trong nghi lễ lên đồng, mà còn được coi như hình thức ca nhạc dân gian vui tươi, lành mạnh. Sở dĩ như vậy là vì nét sinh hoạt cộng đồng này đan quyện cả yếu tố tín ngưỡng lẫn văn hóa và nhiều người nhìn nhận rằng chầu văn đã bước từ cõi thiêng ra cõi tục.

Liên hoan Hát văn – hát chầu văn khu vực Đồng bằng sông Hồng vì thế mà được đông đảo nhân dân đón chào. Tại Liên hoan, các nghệ nhân, diễn viên đã biểu diễn những làn điệu chầu văn truyền thống thể hiện sự tôn kính đối với các vị Thánh Mẫu và các vị anh hùng dân tộc. Cùng đó là sự thừa kế giữa các làn điệu chầu văn truyền thống cổ (giá văn) để tạo ra những lời mới ca ngợi đất nước, quê hương, ngợi ca đời sống, nhịp sống mới, với những chất liệu âm nhạc đặc sắc, tươi vui, sống động. Như lời của Thu Hiền – diễn viên của Nhà hát chèo Thái Bình, thì hầu hết các tiết mục của đoàn Thái Bình đem tới liên hoan đều được chú tâm chọn các giá văn vui tươi như “Cô Bé”, “Cô Chín Sổng”…

Tuy nhiên, tại liên hoan, cũng đã có nhiều ý kiến cho rằng nhạc lễ thiêng liêng như chầu văn không nên phổ quát rộng rãi trong đời sống, vì như thế sẽ làm “tục hóa” sinh hoạt tín ngưỡng này. Chưa kể bao nhiêu biến tướng xô bồ chung quanh việc hầu đồng trong thế giới hiện đại. Theo GS Ngô Đức Thịnh – Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và bảo tồn văn hóa tín ngưỡng, những năm 40-50 của thế kỷ trước, các cung văn hát trong lễ hầu đồng là những người hát chuyên nghiệp. Và hát chầu văn thực sự là một bộ môn nghệ thuật chuyên nghiệp. Nhưng hiện nay thì những người hát văn phần lớn là nghiệp dư. Có một bộ phận nghệ sĩ vốn hát cải lương, chèo, tuồng… đi hát văn vì mưu sinh. Tuy rằng trong hát văn vẫn tích hợp những yếu tố của các loại hình âm nhạc truyền thống khác, nhưng qua quá trình tồn tại và phát triển, nó đã trở thành một loại hình âm nhạc cổ truyền gắn với lời ca và cây đàn nguyệt, chuyên nghiệp và đặc trưng không lẫn với các loại hình khác. Chính các nghệ sĩ chèo, tuồng, cải lương… đã mang những yếu tố lai tạp đến cho hát văn. Đó cũng là một sự biến tướng làm suy giảm giá trị của nghệ thuật hát chầu văn. GS Ngô Đức Thịnh cũng cho rằng, để bảo tồn và phát huy nghệ thuật hát văn cũng như các thể loại âm nhạc dân gian khác phải hiểu rõ một cách sâu sắc về những giá trị của nó ở nhiều góc độ khác nhau. Ðây là vấn đề then chốt mang tính nền tảng bền vững để chúng ta có cơ sở bảo tồn và phát huy nghệ thuật hát chầu văn một cách có hiệu quả hơn. Trong tình hình hiện nay, những quan niệm và cách nhìn nhận, đánh giá về thể loại hát chầu văn và hầu bóng có khác đi rất nhiều so với trước đây. Do đó, bảo tồn và phát huy những giá trị của thể loại hát chầu văn và hầu bóng là phải tuyên truyền, giáo dục và diễn giải cho mọi tầng lớp quần chúng nhân dân thấy được những cái tích cực và tiêu cực trong quá trình tiếp nhận nó.