Taktser Rinpoch, thế danh là Thupten Jigme Norbu, năm 3 tuổi, được công nhận là người tái sinh của viện chủ tu viện Kumbum, một trong những tu viện quan trọng nhất Tây Tạng, tại Qinghai (Thanh Hải) ngày nay. Vì thế, ông đã là nhân vật xuất sắc trong giới chức sắc Phật giáo Tây Tạng trước khi người em trai của ông, đức Dalai Lama chào đời.
Ngay sau cuộc xâm lược Tây Tạng của Trung Quốc năm 1949-1950, ông đóng vai trò trung tâm hòa giải quan trọng đầu tiên giữa đức Dalai Lama và giới chức Trung cộng.
Và sau đó, khi ở Ấn Độ, ông làm trung gian hòa giải giữa Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và đức Dalai Lama trong suốt thời gian đàm phán kéo dài giữa Bắc Kinh và Lhasa về việc ký Hiệp định Bảy điểm gây tranh luận, – một văn kiện có tính pháp lý quy định sự cai trị của Trung Quốc ở Tây Tạng.
Taktser Rinpoch luôn nghi ngờ mục đích của Trung cộng ở Tây Tạng. Ông khuyên đức Dalai Lama nên rời Tây Tạng để công khai tranh đấu với cái được hiểu là những đe dọa trực tiếp về sự an toàn của chính bản thân đức Dalai Lama, cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ Tây Tạng.
Năm 1950, khi đức Dalai Lama vẫn còn ở thủ phủ Lhasa, theo một bản báo cáo, giới chức Trung Quốc cố nài nỉ ông đến Lhasa để thuyết phục đức Dalai Lama chấp nhận “sự giải phóng hòa bình” của Tây Tạng, và hứa khả sẽ đưa ông giữ chức thủ hiến Tây Tạng nếu thực hiện thành công phi vụ này.
Taktser Rinpoch đến Lhasa gặp đức Dalai Lama. Thay vì thuyết phục đức Dalai Lama, ông bày tỏ sự quan ngại sâu sắc về ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Tây Tạng, và thúc giục đức Dalai Lama lẩn trốn ở vùng biên giới giữa Tây Tạng và Ấn Độ.
Mặc dù là một đệ tử trung kiên và tận tụy của đức Dalai Lama, tuy nhiên, Taktser Rinpong luôn giữ lập trường khác biệt với người em trai của mình về tình hình Tây Tạng. Ông có khuynh hướng độc lập toàn diện cho Tây Tạng, trái hẳn với mô hình tự trị với đầy đủ ý nghĩa mà đức Dalai Lama hướng đến.
Là người đầy bản lĩnh và nghị lực, Taktser Rinpoch dâng trọn đời mình để phục vụ cho đức Dalai Lama, cho Tây Tạng và cho nhân dân Tây Tạng, ngay cả làm sứ giả của đức Dalai Lama ở Nhật Bản.
Ông rời Tây Tạng trong thập niên 50 của thế kỷ 20. Trong sự nghiệp sáng tác qua một thời gian, ông đã viết một vài tham luận và vài cuốn sách viết về Tây Tạng, bao gồm hồi ký về bản thân ông, “Tây Tạng, đất nước tôi” (Tibet is My Country), – một trong những sách đầu tiên có giá trị học thuật về kinh nghiệm của dân tộc Tây Tạng.
Ông đến Hoa Kỳ, nơi mà năm 1979, ông sáng lập Trung tâm Văn hóa Tây Tạng, để phục vụ với tư cách là Giáo sư Tây Tạng Học tại Đại học Indian.
Taktsa Rinpoch đã cống hiến không mệt mỏi để bảo vệ văn hóa Tây Tạng và nhân quyền cho Tây Tạng.
Hằng năm, – ngay cả năm nay, trước lúc Thế Vận Hội Bắc Kinh diễn ra, – ông tham gia cuốc bộ dài và cỡi xe đạp để đánh thức thế giới về sự khốn khổ của người dân Tây Tạng.
Ông sống được đến nay là nhờ hôn thê Kunyang và 3 con.
Thích Minh Trí biên dịch (Theo phayul.com)








