Trang chủ Văn hóa Chùa Việt Nam Báu vật chùa Trúc Lâm

Báu vật chùa Trúc Lâm

74

Vào thời Khải Định (1916-1924), khi ra kinh đô Huế dạy Phật pháp, hòa thượng Phước Huệ – chùa Thập Tháp (Bình Định) nghe câu chuyện về bản kinh đã nhận định đây là một “pháp bảo”, truyền cho các đệ tử truy tìm. Sư bà Diệu Không – chùa Hồng Ân (Huế) đã lần ra tung tích bản kinh trong nhà một người dân và nhà chùa đã chấp nhận mua lại với giá cao, tương đương với bảy lượng vàng. Giá đó chủ yếu là giá của hộp gỗ được chạm trổ công phu, bởi chủ sở hữu lúc đó quý hộp gỗ hơn là bản kinh.

Cổ bản kinh và sự lưu lạc

Một đoạn kinh Kim Cương

Giữa không gian xanh của cây cối, chùa Trúc Lâm tọa lạc trên một ngọn đồi thuộc xã Thủy Xuân, cách trung tâm thành phố Huế chừng năm cây số về phía Tây Nam. Đến viếng chùa Trúc Lâm hôm nay, dường như ai ở Huế cũng thường nghĩ ngay đến các pháp bảo của Phật giáo Huế đang được lưu giữ tại chùa.

Ấn tượng và cũng rất riêng biệt là bản thêu kinh Kim Cương là hiện vật thời Nguyễn nhà Tây Sơn, được đặt ở trước bàn thờ Phật tổ, ngay giữa chính điện. Bản thêu này đã được công nhận kỷ lục Việt Nam với nội dung: “Ngôi chùa có bản kinh Kim Cang (Cương) thêu trên gấm dài nhất Việt Nam” đầu tháng 5-2009 đã được tổ chức Sách VietKings tổ chức công nhận cho ngôi chùa này.

Bản kinh với khoảng 7.000 chữ Hán, được thêu bằng chỉ ngũ sắc các màu, gồm đỏ, vàng, xanh, trắng, lục cách đều và liên tục, trên nền gấm vàng có viền và lớp lót bằng vải điều, dài 2,47m, rộng 23,4cm. Nội dung gồm có ba phần, phần đầu có hai bản tựa, tiếp đến là toàn văn kinh Kim Cương và cuối cùng là lời bạt.

Hòa thượng Thích Lưu Hòa và bản kinh quý giá tại chùa Trúc Lâm

Theo nhà nghiên cứu văn hóa Huế Hồ Tấn Phan, ở phần lời tựa là sự ca tụng về “cõi thâm sâu” của giáo lý Phật giáo được thực hiện trong bản kinh Kim Cương như chứng minh kinh Kim Cương là một trong những bản kinh Phật lấy lòng từ bi và dùng trí huệ soi sáng thế gian của nhà Phật để thế nhân thoát khỏi bể trầm luân, thoát khỏi cõi u minh, đi đến giải thoát…

Với ý nghĩa đó, hai nhân vật được nhắc tên trong bài tựa thấy bản kinh rất hay và cũng muốn thực hiện như vậy trong việc cai trị đất nước của mình. Bài tựa thứ nhất có câu mở đầu là “Thái thượng hoàng đế ngự chế…”, còn bài sau là “Cảnh Thịnh…”. Thời gian hoàn thành việc thêu cũng được ghi rất rõ là “Cảnh Thịnh bát niên thập nhất nguyệt sơ nhất nhật”, tức ngày 1 tháng 11 năm Cảnh Thịnh thứ tám (theo Dương lịch là ngày 16-12-1800).

Xưa nay, giới nghiên cứu cho rằng bài tựa thứ nhất là của vua Quang Trung và bài tựa thứ hai là của vua Cảnh Thịnh. Nếu được nghiên cứu kỹ lưỡng và khẳng định được điều này thì bản kinh càng có giá trị về mặt văn hóa và lịch sử vì những hiện vật văn hóa thời Tây Sơn phần lớn đã bị tàn phá sau biến cố thay đổi triều đại.

Phần lời bạt nằm cuối cùng bản thêu nói về việc thực hiện bản kinh thêu của ni sư Diệu Tâm, trụ trì chùa Sài Sơn (thuộc huyện Yên Sơn, tỉnh Sơn Tây), thêu với mục đích cúng dường đức Phật, cầu cho tổ tiên, ông bà siêu thoát. Lời bạt này cũng ghi lại rằng hễ thêu xong một chữ là ni sư niệm mười tiếng trong bộ kinh mình đang thêu như để gửi gắm ước nguyện lớn lao ấy.

Trước khi đến chùa Trúc Lâm, bản kinh cũng có đoạn đường đi ly kỳ: đoàn quân họ Nguyễn Phước (của triều nhà Nguyễn) khi ra Bắc tiêu diệt nhà Tây Sơn vào năm 1801 phát hiện bản kinh, đã tịch thu đem về Huế, thờ trong Khương Ninh các – một hình thức am (chùa) nằm trong khu vực cung Diên Thọ – Hoàng thành Huế. Bản in bị thất lạc trong dân gian một thời gian sau đó. Đến thời Khải Định thì sư bà Diệu Không mới tìm ra được như đã nói ở trên.

Ban đầu hòa thượng Giác Nhiên – chùa Tây Thiên (Huế) nhận bảo quản bản kinh, nhưng đến năm 1943, khi chùa Tây Thiên bị mất cắp một số đồ vật, bản kinh được chuyển về cho hòa thượng Thích Mật Hiển ở chùa Trúc Lâm và nằm tại đây cho đến ngày nay. Bản kinh nhìn chung còn nguyên vẹn nhờ được bảo quản tốt, nhưng trải qua thời gian hơn 200 năm, hiện trạng của bảo vật đang xuống cấp: chỉ thêu xuống màu, gấm vàng nhiều chỗ nứt rách và lớp lót nhiễu điều lỗ chỗ vết mực…

Trúc Lâm tự và những sự kiện lưu truyền

Cảnh sắc chùa Trúc Lâm

Kể từ năm 1903, các thế hệ sư thầy đã tạo nên một không gian vườn chùa với cảnh tượng đa sắc khá đặc trưng và là một trong những vườn chùa nổi tiếng xứ Huế. Trong một thời gian dài, tiếng tăm của chùa Trúc Lâm Huế gắn liền với hòa thượng Thích Mật Hiển (sư ông trụ trì, viên tịch vào năm 1992) – người gắn liền với rất nhiều huyền thoại về các ngón võ học siêu phàm như đi trên mặt nước, di chuyển trên các ngọn cây và nhiều ngón võ cao siêu khác.

Không chỉ có bản kinh, chùa Trúc Lâm hiện còn lưu giữ hai tự khí là những hiện vật gốm đặc biệt quý giá. Vật thứ nhất là chiếc lư đốt trầm gắn liền với phần đế bên dưới, nhiều chỗ đắp nổi, có minh văn theo phong cách gốm sứ thời Mạc, được cho là tráng men Tam Thái (ngà, trắng và xanh), cao khoảng 32cm, đường kính 22cm. Những minh văn còn ghi rõ chiếc lư được sản xuất vào thời Lê niên hiệu Chính Hòa (1680-1704), là tự khí của chùa Bảo Sơn (phủ Từ Sơn, huyện Đông Ngạn, tỉnh Bắc Ninh). Nhiều tài liệu cho hay lư trầm này được Thượng thư Hồ Đắc Trung, cha của sư bà Diệu Không, đem từ Thanh Hóa vào dâng cúng cho nhà chùa.

Đặc biệt hơn cả có lẽ là chiếc bình bát bằng chu sa, được xem là của dâng tặng hòa thượng Thạch Liêm – Thích Đại Sán, tác giả cuốn sách Hải ngoại ký sự nổi tiếng. Sư ông Đại Sán người Giang Tây (Trung Quốc), được chúa Nguyễn Phúc Chu mời từ Quảng Đông về giúp nhà chúa xây dựng triều đình rất hợp lòng dân. Chiếc bình bát này là một trong những vật nhà chúa dâng tặng với lòng thành.

Hòa thượng Thích Lưu Hòa, trụ trì chùa Trúc Lâm, cho biết bản thêu kinh Kim Cương, lư trầm và bình bát chu sa được nhà chùa coi sóc đặc biệt cẩn trọng, chú ý gìn giữ với ý thức là những pháp bảo không chỉ riêng nhà chùa mà còn là pháp bảo của cả Phật giáo Huế.

Lư trầm thời Mạc

Bình bát chu sa được cho là của hòa thượng Thích Đại Sán

Hòa thượng Thích Lưu Hòa và nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan đang tìm cách đọc những minh văn trên lư trầm