Trang chủ Diễn đàn Phật tử và Dân tộc Cầu nguyện “đòi đất”: Một kiểu “đối thoại” bằng luật rừng

Cầu nguyện “đòi đất”: Một kiểu “đối thoại” bằng luật rừng

164

Ông Ngô Quang Kiệt trong mấy ngày qua lại “hăng say” phát biểu rằng: “Nhà nước cần giải quyết ngay vụ Tòa Khâm sứ vì nếu vụ này bế tắc, vụ Thái Hà cũng sẽ không tháo gỡ được” (BBC).

 

Phát biểu trên đã lộ rõ ý đồ “cầu nguyện đòi đất” của ông Ngô Quang Kiệt vì ai cũng biết vụ “Tòa khâm sứ” là do chính ông ta phát động. Hóa ra đây là một “phản ứng dây truyền” có chủ đích “tái chiếm” (trong đó có những phần đất di sản của Phật giáo bị chiếm đoạt) rất rõ.

 

Chỉ cần trả lại hết “đất đai” mà nhà nước đã trưng thu của đạo Công giáo (không thôi) trong chính sách quốc hữu hóa tài sản thời cải tạo xã hội chủ nghĩa là sẽ có ngay “công lý và hòa bình”, và sẽ không còn ai vác búa, xà beng, rời tượng Chúa và cắm mốc thánh giá đi cầu nguyện nữa, bằng không thì kiên trì chiếm đất tới cùng.

 

Vậy ra hành vi “cầu nguyện đòi đất” chính là lợi dụng thời cơ (mở cửa tự do) để phủ định nguyên nhân và kết quả của chính sách nhà nước Việt Nam trong một thời điểm lịch sử nhất định.

 

Cần lưu ý rằng, trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chính sách “người cày có ruộng” được đặt ra xuyên suốt từ thời Pháp thuộc. Sai lầm trong cải cách ruộng đất là có, nhưng khi Hồ Chủ tịch khi ra quyết định sửa sai cũng chỉ là quy định lại thành phần, đảng tịch chứ chưa hề có chuyện trả lại ruộng đất bị trưng thu. Bởi chính sách này cơ bản đem lại lợi ích cho đại đa người nông dân.


Chính vì vậy khi luật đất đai năm 2003 và các nghị định của chính phủ về luật đất đai vẫn thống nhất với luật trước đó ở điểm, không giải quyết khiếu nại những trường hợp về đất đai mà nhà nước đã trưng thu, quản lý (hầu hết đất của thực dân, phong kiến, chủ tư sản, việt gian, quan thầy, cố đạo…) trong thời cải tạo xã hội ở miền Bắc và chính sách đất đai ở miền Nam.


Với thách thức quyết đòi “Tòa Khâm sứ” bằng được cho Vatican, ông Ngô Quang Kiệt vừa tung hô sự “hiệp thông cầu nguyện” (bất chấp những thông điệp của chính quyền) vừa kêu gọi “giải quyết bằng đối thoại” và nói: “Tôi nghĩ rằng bây giờ các đường hướng giải quyết phải rất đột phá, sáng tạo, chứ không thể theo những đường hướng xưa cũ được nữa”.

 

Tuy nhiên ở các vụ “cầu nguyện đòi đất”, không hiểu bên nào sẽ phải giải quyết bằng “đột phá”, “sáng tạo” và “không thể theo đường hướng xưa cũ”?


Rõ ràng nhà nước chỉ có thể giải quyết bằng pháp luật vì không có pháp luật thì nhà nước duy trì làm sao được trật tự xã hội. Còn nhà thờ thì “đột phá” đã có rồi (cầu nguyện, ca hát chán chê rồi đến lượt phá cổng, phá tường rào), “sáng tạo” đã có rồi (kêu gọi cả trẻ em vốn chẳng biết gì về tranh chấp đất đai tham gia, kéo cả người dân tộc đến gõ cồng chiêng, bắc loa phóng thanh kích động…).

 

Nhưng khi kêu gọi “không thể theo đường hướng xưa cũ” thì nhà thờ lại cứ đi vào “đường hướng xưa cũ” của mình (rời tượng Chúa, cắm mốc thánh giá chiếm đất, bên cạnh việc tung tin Đức Mẹ hiển linh, hiện hình, chiếu hào quang…).


Ở thời Pháp thuộc giáo dân cũng luôn tự cho mình cái quyền đứng trên Pháp luật và bây giờ hình ảnh đó càng ngày càng được tái hiện một cách sinh động.

 

Dù muốn hay không cũng xin ông Ngô Quang Kiệt đọc lại một số tư liệu trong thư khố của Bộ Ngoại giao và Bộ Hải quân của Pháp qua luận án tiến sĩ triết học được bảo vệ tại Pháp của Cao Huy Thuần: “Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam” để nghiền ngẫm nhiều hơn đến những bài học lịch sử mà chăn dắt con chiên, đừng vì sự hiếu thắng của chính mình mà tiếp tục khơi lại những vết thương đau của lịch sử dân tộc, đặc biệt của Phật giáo.


“…Trong chuyến công tác, người ta cho họ đi đầu toàn thể dân Công giáo rồi chiếm và đốt một số làng của các kẻ ăn cướp hay của các nho sĩ võ trang (các sĩ quan gọi bất cứ ai chống họ là “kẻ cướp”).

 

Họ giết 10 người, trong đó có một viên chỉ huy; các người bị thương đều bị tra tấn, bị trấn nước hay bị thiêu sống, chùa chiền bị phá hủy. Những người đó tỏ ra rất can đảm, nhưng tôi tự hứa không để bắn một phát nào nữa nếu không có tôi (bất kể những lời người ta khuyên) mục đích là để tôi đích thân chống lại các cảnh dã man đó, mà chỉ tấn công các làng chắc chắn có tội và để tránh cho các con chiên cuồng tín đó khỏi bị trả đũa khủng khiếp trong trường hợp Pháp thua trận hay thay đổi chính sách” (Harmand gửi Testard, 16-1-1874, Thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại A00 (10) hộp 1).


“… Chúng tôi lần lượt chiếm 4 làng, bắt 5 người chỉ huy, nhưng không phải là những người nổi tiếng, họ sẽ bị xử tử hôm nay, và giết ít nhất 50 người trang bị bằng dáo hay bằng gậy…

 

Viên hạ sĩ và hai người mà tôi phái đến Giám mục Cézon đã trở về ngày hôm kia. Phái bộ truyền giáo đã phái họ đến một ngôi làng người lương ít nhiều theo trộm cướp, họ giết 10 người, họ kể với tôi rằng, người An Nam tra tấn rất tàn nhẫn các người bị thương, phá sập ngôi chùa trong làng, tất cả việc này, Giám mục Tây Ban Nha hết sức hài lòng…” (Harmand gửi Ganier ngày 22-12-1873, do J.Marquet và J.Norel dẫn, “L’occupation francaise au Tonkin”, tr.112).


Không chối cãi được, một số Giám mục Pháp đã hùa với các nỗi ghen ghét, hận thù sục sôi ở nơi họ sống; họ làm hại các con chiên một cách nghiêm trọng khi đẩy những người này vào một cuộc nổi dậy chống lại chính phủ An Nam.

 

Việc chinh phạt của Pháp chỉ là cái cớ bề ngoài, còn lý do căn bản là sự tranh chấp phe phái. Nên để ý là một số vụ nổi loạn do những kẻ tự xưng là con cháu nhà Lê đều có các viên chỉ huy là Thiên Chúa giáo…

 

Cầm đầu các đám tín đồ Thiên Chúa đi cướp bóc, đốt phá các làng phi Thiên Chúa và triệt hạ chùa chiền thường là các linh mục hay các kẻ truyền đạo: họ bổ nhiệm các viên đội, tụ tập binh lính mà đa số, theo lời thú nhận đều là đầu trộm đuôi cướp” (Philastre gửi Dupré, 15-1-1874, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc 13506 số 4).


Hình như đôi khi, tôi dám nói như thế này, lòng nhiệt thành tôn giáo đã hủy hoại các tư tưởng công bình, chân lý, nhân đạo, bác ái ở các nhà truyền đạo, và họ dễ dàng để mình bị lôi cuốn vào chính các lỗi lầm mà họ đã thấy rõ ở các đối phương của mình” (Rheinart gửi Garnier, 14-14-1874, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc 13506 số 4).


“… Chúng tôi thấy một số lớn làng bị thiêu rụi. Khổ thay, cứ mỗi lúc, các tín đồ Thiên Chúa giáo thấy kẻ thù của họ biến mất, hoặc họ tự thấy mình mạnh hơn thì họ lại đi hành quân, trả thù không gớm tay, rồi đến phiên họ lại đốt và giết. Hầu hết họ đều có võ trang, và tôi tin rằng, chính các nhà truyền giáo cũng không ngăn cản nổi.

 

Đó là điều đáng tiếc, vì các quan mới từ Huế ra đều nhân cớ đó mà xác nhận rằng, chính các tín đồ Thiên Chúa gây sự, chính những người này là nguyên nhân đầu tiên của mọi đau khổ. Hơn nữa, vì những con chiên có nhiều khí giới, nên họ sẵn sàng xem những con chiên là những kẻ làm loạn” (Báo cáo của Harmand ngày 24-1-1874, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc 11689/54).


Ngay khi thấy mình được ủng hộ, các tín đồ Thiên Chúa giáo đã không ngần ngại đốt nhà, giết người, và cũng như những người này, nếu cần, họ vu cáo để biện minh cho việc tàn bạo của mình.

 

Đó là điều họ đã làm năm vừa rồi, và chính điều này đã gây ra những vụ trả đũa mà người ta gọi một cách saimlầm là các vụ đàn áp. Nếu khi che chở họ, chúng ta nhắm mắt để họ lôi kéo, chúng ta sẽ gây ra một phản ứng dữ dội chống lại những nhà nho một cách không kém dã man, không kém tàn bạo như những vụ đàn áp bây giờ” (Rheinart gửi Dupré, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc 13506 số 4).


Tôi tin rằng Giám mục Gauthier và Giám mục Purinier nhất là ông sau này không chịu nổi ý kiến một giải pháp hòa bình cho vấn đề: giải pháp này sẽ phá tan hy vọng của họ mong muốn thấy một chính phủ riêng biệt, chính phủ này có lẽ sẽ là một chính phủ Công giáo.

 

Các tín đồ Công giáo lại càng phóng đại hơn nữa các ý tưởng đó và xúi giục các linh mục, các người chăn dẫn họ để đưa đến một sự đổ vỡ mới giữa hai chính phủ… Suốt ngày chúng tôi nhận tới tấp các báo cáo và các lời yêu cầu đem quân chinh phạt các tỉnh đó” (Thư Philastre gửi Dupré, 15-1-1874).


Suốt ngày tôi tiếp những người tự xin điều khiển các binh lính mà họ tụ tập thành từng toán 100, 150 người, tất cả đều được các cha xứ gửi gắm, nhưng tôi cố phản ứng không mích lòng một ai để chống lại những khuynh hướng tràn ngập của các tín đồ Thiên Chúa” (Thư Harmand gửi Garnier 16-12-1873).


Tôi vẫn cứ tiếp khách mãi: Họ nối đuôi nhau trước túp lều tôi từ 7 giờ sáng cho đến tối, tôi phải tiếp mãi những người đến khiếu nại hay xin xỏ: kẻ thì xin được giúp đỡ che chở, kẻ thì tụ tập được một số người rồi đến xin khí giới để trang bị và cấp bằng chỉ huy, sau rốt có kẻ, và đây là số đông đến xin giúp việc thư ký, công chức đủ hạng, và còn xin được bổ làm tri phủ, tri huyện.

 

Tất cả hình như hầu hết là tín đồ Thiên Chúa và một phần ở tỉnh Ninh Bình kế cận, do các linh mục cử sang. Trong những trường hợp gay cấn này, tín đồ Thiên Chúa đã biểu lộ một sự tham lam trơ trẽn, vừa thiếu dè dặt vừa đầy ích kỷ… Họ tỏ ra rất thô thiển.

 

Họ xem việc chúng ta đến đây như là đánh dấu cho giờ phục thù và trả đũa; về phần những nhà truyền giáo, ngay từ đầu có lẽ họ đã đưa ra những lệnh nghiêm ngặt; nhưng chắc chắn sau đó họ bị tràn ngập.

 

Mỗi ngày tôi nhắc đến chục lần: “Thế ra các ông cho rằng chúng tôi đến đây để gây một cuộc chiến tranh tôn giáo hay sao? Chúng tôi đến đây với mục đích thuần túy thương mại. Dù các ông có là giáo là lương, là Trung Quốc cũng không phải là điều quan trọng… Tôi nói thêm, không phải mọi người Pháp đều theo đạo Thiên Chúa đâu, điều này khiến họ hết sức ngạc nhiên” (Thư Harmand gửi Testard du Cosquer, 16-1-1874).


Khi triều đình Huế bị các khiếu nại của các Giám mục đè ép, muốn bắt các “làng không đạo phạm tội” bồi thường, đòi quyền hưởng thụ và sở hữu các đất đai vắng chủ, gây nên sự thù ghét của những người phi Công giáo, Rheinart viết:


Điều 9 luôn luôn đem lại cho chúng ta các khó khăn, vì rằng các con chiên đã làm bậy khi lập nên một chính đảng chính trị muốn ở ngoài pháp luật của xứ này và tự cho là độc lập. Không có nước nào vô tư cho bằng nước An Nam về vấn đề tôn giáo, và nếu các phái bộ chỉ lo giảng đạo, họ không có gì phải lo cả” (Rheinart gửi thống sứ Le Myro de Vilers, 19-8-1879, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc 10443/8).


Giới tăng lữ Thiên Chúa An Nam thích thú ỷ dựa vào việc chúng ta ủng hộ để gây sức ép lên dân lương. Họ đã bám vào sự che chở của chúng ta bằng cách đổi đạo, dù thành thật hay không; sự kiêu hãnh công thêm vào lòng hăng hái tôn giáo thúc đẩy họ đi cù rũ người theo đạo khắp nơi… chúng ta bảo đảm tự do tôn giáo, nhưng tuyệt đối chúng ta không ham mê gì các vụ đổi đạo mau lẹ và đông đảo cả” (Thư Rheinart gửi Dupré, 28-10-1876, số 248).


Giám mục Puginier, người gây ảnh hưởng rất lớn trên chính sách của chúng ta tại Bắc Kỳ từ mấy năm nay và lúc nào cũng thúc dục việc tiêu diệt Văn Thân cũng đã thừa nhận với tôi cách đây mấy hôm rằng “Đảng Văn Thân” – đó là cách ông ta gọi những thành phần có học trong dân chúng” (Văn thư về tình hình chính trị và kinh tế ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, 13-7-1887, Thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại, A00 (22) hộp 2) .


Tại Trung Kỳ, Văn Thân đông đảo hơn Bắc Kỳ nhiều, họ tức giận vì vô số sự xúc phạm mà quân đội Pháp gây ra cho những quan lại cao cấp nhất, vì tiền phạt mà các Phật tử phải tra cho tín đồ Thiên Chúa giáo, và vì thái độ của tín đồ Thiên Chúa giáo hầu như khắp nơi không chịu nộp thuế, không chịu làm xâu, tóm lại không chịu tuân lệnh các quan. Về việc này Lanes đã đưa ra ví dụ tiêu biểu:


Viên Tổng đốc và các viên Tri phủ trong một tỉnh Trung Kỳ đã kể với tôi rằng các tín đồ Thiên Chúa giáo không tuân lệnh nộp thuế và làm xâu…. Tôi hỏi tại sao không dùng sức mạnh buộc họ phải theo như đã làm đối với người Phật tử, viên Tri phủ tại một phủ có nhiều người Thiên Chúa giáo sinh sống trả lời: “Chúng tôi thường cố gắng làm như thế, những nhân viên của chúng tôi bao giờ cũng được trả lời bằng những phát đạn”

 

Hầu như khắp nơi ở Bắc cũng như Trung Kỳ, các tín đồ Thiên Chúa giáo hoặc đã ít nhiều tranh né các bổn phận mà những người Việt Nam khác phải làm, và trong việc kháng cự này, họ được các giáo sĩ khuyến khích. Kết quả tự nhiên là một mối hiềm thù sâu xa giữa hai hạng dân và là nguyên nhân của các hỗn loạn ở địa phương, nhất là tại các tỉnh Bắc, Trung Kỳ” (Văn thư về tình hình chính trị và kinh tế ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, 13-7-1887, Thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại, A00 (22) hộp 2).


Những hành vi “cầu nguyện đòi đất” mà những người chủ chăn sách động giáo dân có phải là “đối thoại” không, hay họ đang tiếp tục thực thi những “luật” riêng rất có “truyền thống” của họ để tạo nên sự hỗn loạn tại thủ đô Hà Nội?

 

Hành động của ông ngô Quang Kiệt cũng như sự viếng thăm cổ động sự “cầu nguyện” của một số giám mục Hải Phòng, Thái Bình càng chứng tỏ những vị chủ chăn này rất có “ý thức” trong hành vi chiếm đất.


Muốn “đối thoại” phải tương đồng về chủ thể, phải tuân thủ các quy định của pháp luật, trong đó các tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ với các chính sách và pháp luật của nhà nước. Nếu bỏ qua các tổ chức, cá nhân để giải quyết “công lý và hòa bình” riêng cho người Công giáo là điều không thể, bởi nó sẽ ảnh hưởng đến chính sách chung về đất đai.

 

Những bất ổn phát xuất từ một tiền lệ phá luật (dù luật nhà nước vẫn cần được điều chỉnh để hoàn thiện hơn) như vậy sẽ tạo nên những phản ứng xã hội bất thường.

 

Tại sao ngay thời điểm luật ban hành, người Công giáo thấy không hợp lý lại không đấu tranh để thay đổi hiến pháp, pháp luật. 50 năm sau phản ứng lại bằng “cầu nguyện” như vậy chẳng phải là muộn quá hay sao?


Căn bản đất đai của người Công giáo bị trưng thu không chỉ nằm trong một chính sách chung ở tầm vĩ mô mà còn là “nhân quả” của chính người Công giáo trong thời Pháp thuộc. Tuy nhiên, không riêng gì những cơ sở của Công giáo mà có không ít cơ sở của các tổ chức tôn giáo khác cũng nằm trong chính sách ấy. Vậy ai sẽ là người “cầu nguyện đòi đất” thay cho họ.


Nếu muốn “cầu nguyện” thì Công giáo nên cầu nguyện “sửa đổi pháp luật” đặc biệt là luật đất đai, hay sửa đổi hiến pháp: “đất đai không phải là sở hữu toàn dân”. Chứ “công lý và hòa bình” không phải là chủ đề trong đối thoại trước cuộc phát động cầu nguyện tại mảnh đất “Tòa khâm sứ”, mảnh đất mà vốn dĩ chẳng có một thứ công lý hòa bình nào trước đó được nhà thờ thực thi, vì nó do cưỡng chiếm mà có. Lẽ nào lại có một thứ “công lý và hòa bình” chéo cẳng ngỗng như vậy.


Mặt khác, là người chủ chăn của cả một giáo phận, ít nhiều ông Ngô Quang Kiệt phải hiểu những chính sách quản lý đất đai ở tầm vĩ mô nói lên bản chất quyền lực xã hội của một chế độ. Nhà nước nắm vai trò quản lý và điều tiết tất cả các cấu trúc vận hành của xã hội để đảm bảo trật tự, trong đó pháp luật phải được tôn trọng vì dù chưa hoàn thiện thì nó cũng là hình ảnh của một nhà nước pháp quyền.

 

Chúng ta cứ thử hình dung trong thời Pháp thuộc, đất đai phần lớn thuộc sở hữu của thực dân, của các cha đạo và quan thầy, làng nào theo đạo thì được ưu tiên, làng nào không theo đạo thì bị bách hại. Vậy lúc hưởng lợi từ những “quyền lực thực dân” ấy, không biết có nhà thờ nào kêu gào “công lý và hòa bình” không?

 

Hay lúc đó không ít giáo sĩ đã chuẩn bị lực lượng võ trang để đàn áp lương dân, thủ tiêu các phong trào khởi nghĩa, cách mạng khi họ không chịu khuất phục mình để bán rẻ dân tộc?


Kiểu “cầu nguyện” bất chấp pháp luật như vậy làm sao có thể gọi là “đối thoại” được. Hơn nữa khi chưa “đối thoại” xong thì ai đó cũng đã tơi bời bởi những ngôn ngữ miệt thị pháp luật nhà nước rồi. Tại sao đối thoại “chậm” vì vốn dĩ nó không có một cơ sở pháp luật nào để giải quyết trước yêu sách đó, muốn nó nhanh thì chỉ còn cách tự “sửa pháp luật” bằng “luật rừng”, ào vào chiếm đất và đuổi người khác đi thôi.

 

Nước ngoài rất hay can thiệp vào “tôn giáo” mà, có nó chống lưng thì lo gì đến việc vi phạm pháp luật? Với thái độ chiếm đất đi trước cả pháp luật và đối thoại, chúng ta buộc phải nhớ đến chùa Lá Vàng (“thánh địa” La Vang hiện nay) bị chiếm và hợp thức hóa đến mức ngây ngô như thế nào.

 

Có vị linh mục cao hứng quá đã viết cả vè về lịch sử La Vang, miêu tả rất nhiều thái độ “hành hung” trong đó có một câu điển hình: “Bà (chỉ Đức Mẹ) vào, Bà đánh tứ tung. Bao nhiêu thần Phật, bay tung ra ngoài”. Đó là “phép lạ”.

 

Và quả thật chẳng có “phép lạ” nào bằng, cứ bay vào chỗ mình cần mà đánh tứ tung, đánh quá thì người ta sợ cũng phải bay tung ra ngoài thôi. Đối thoại làm gì cho mệt.

 

Dùng mấy nghìn người (chủ quan) để đối thoại rồi tung hô ra thế giới về nhân quyền, tự do tôn giáo thì sẽ nhanh chóng có đất thôi. Đối thoại làm gì khi bắt đầu người ta lại chẳng tôn trọng những nguyên tắc đối thoại bằng cả lương tâm lịch sử và pháp luật.


Thiết nghĩ trong vụ việc này “đột phá và sáng tạo” nhất để thay đổi hình ảnh của ông Ngô Quang Kiệt chính là việc ông ta nên đề nghị phía Giáo hội Công giáo Việt Nam trả lại những phần đất di sản Phật giáo bị chiếm phá trong thời Pháp thuộc và chính thức ra lời xin lỗi với dân tộc và Phật giáo. Bởi lịch sử không phải là “sự đã rồi”.

 

Người Phật tử không bao giờ quên những dĩ sản của mình vì di sản là biểu tượng của chủ quyền dân tộc. Nó nhắc nhở người Phật tử rằng mất di sản là mất chủ quyền dân tộc. Bởi bất cứ khi nào giặc ngoại xâm hiện diện trên mảnh đất này là chùa chiền, đình miếu, di sản, văn vật bị tiêu hủy, đốt phá.


Giáo hội Phật giáo đã từng lên tiếng phản ứng về mảnh đất “Tòa Khâm sứ” cũ, vì mảnh đất ấy chứng kiến một âm mưu cướp phá của Giám mục Puginier và Nguyễn Hữu Độ đối với một di sản thiêng liêng vào bậc nhất của Phật giáo: chùa Báo Thiên.

 

Nay họ núp dưới chiêu bài “cầu nguyện” chính là muốn tái chiếm những phần đất di sản mà Phật giáo đã từng bị cướp phá. Hành động đó chẳng phải đang ngang nhiên thách thức pháp luật, muốn tái lập cái hình ảnh thời ngoại thuộc hay sao?


Xem thêm: