Trang chủ Thời đại Kinh tế học Phật giáo (Phần 1)

Kinh tế học Phật giáo (Phần 1)

112


Nhiều người cho rằng Phật giáo là một tôn giáo nên không có sự quan hệ với vấn đề kinh tế đó là nhận định sai lầm, bởi vì con người là một hợp thể do ngũ uẩn tạo thành chia làm hai phần là Vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Con người không thể chỉ dựa vào tinh thần không thôi mà có thể tồn tại được, nhưng con người cũng không thể chỉ là động vật thuần nhất về kinh tế vật chất. Điều không thể nghi vấn là con người muốn sinh tồn cần phải có đầy đủ những nhu cầu vật chất căn bản nhất như ăn, mặc, ở, thuốc thang… Phật giáo không bài trừ vấn đề kinh tế nhưng nói sự phát triển tinh thần mà không chấp nhận điều kiện vật chất thì không phải là chủ trương và cái nhìn của Phật giáo. Phật giáo nhấn mạnh sự phát triển toàn diện của con người cần hội đủ những vấn đề về phát triển tinh thần, sự tráng kiện của thân tâm cùng sự bảo đảm về điều kiện kinh tế. Trong kinh Phật dạy con người có bốn mong cầu là :


1.       Mong cầu đầy đủ tiền tài. Nói cách khác đối với một người bình thường sự giàu có là mong cầu trước nhất của họ.


2.       Sau khi đầy đủ tiền tài thì mong muốn tiếng tăm của mình được vang vọng khắp nơi, chỉ ít là trong bạn bè và người thân.


3.       Đầy đủ tiền tài cùng danh vọng lại mong cầu được mạnh khỏe và sống lâu.


4.       Được tiền tài danh vọng cùng tuổi thọ rồi người ta lại mong sao sau khi chết đi được sinh về cõi tốt hơn.


Trong kinh “Andha Sutta” đã chứng minh bốn điều mong cầu trên của con người và chỉ ra trên thế gian có ba hạng người là :


1.       “Người mù” đã không có con mắt về tiền tài, không biết giữ gìn nguồn tài chính vốn có của mình cùng tạo dựng cho mình nguồn tài chính mới, lại cũng không có con mắt về đạo đức nên không hề nghĩ và không hề biết tu tập trên phương diện đạo đức.


2.       “Người chột mắt” là người chỉ có con mắt về tiền tài mà không có con mắt về đạo đức, người ấy chỉ biết bảo vệ nguồn tài chính vốn có và xây dựng nguồn tài chính mới nhưng không hề biết tu dưỡng và xây dựng nền tảng đạo đức cho chính mình.


3.       “Người hai mắt” là người vốn là có con mắt về tài chính lại đầy đủ con mắt về đạo đức, biết phát triển đồng nhất và đầy đủ về cả hai phương diện vật chất và tinh thần trong cuộc sống của mình.


Phật giáo ca ngợi người có hai mắt và xác định rằng nếu người mù hoặc người chột thì không thể là người hạnh phúc được. Trong bộ kinh này lại phân tích có hai hạng người nữa là người đen tối và người quang minh.


1.       Nếu một người nghèo lại không có tín ngưỡng thì người ấy từ trong bóng tối bước vào đen tối.


2.       Nếu một người tuy nghèo nhưng có tín ngưỡng thì người ấy từ trong đen tối bước ra ánh sáng quang minh..


3.       Nếu một người giàu có nhưng lại không có tín ngưỡng thì người ấy đã từ nơi ánh sáng bước vào đen tối.


4.       Nếu một người đã giàu có lại đầy đủ về tín ngưỡng thì người  ấy từ ánh sáng bước vào nơi ánh sáng quang minh hơn nữa.


Người đen tối thì nghèo khó, người nghèo khó lại bị đen tối; người quang minh thì giàu có, người giàu có lại quang minh. Đây là sự khác biệt giữa nghèo hèn và giàu có, giữa bóng tối và ánh sáng. Tuy  thế, người nghèo cũng có thể bằng nỗ lực của tự thân để trong bóng tối đi ra ánh sáng nhưng sự nỗ lực này so với người giàu có thì khó khăn gấp nhiều lần vì người nghèo không dễ dàng có được ánh sáng quang minh.


Phật giáo phản đối cái nghèo, Đức Phật đã từng khẳng định: nghèo hèn là một tai nạn. Có lần Đức Phật hỏi các đệ tử “Đối với người đời, nghèo hèn có phải là tai ương không?” Đệ tử đáp:”thưa phải”. Phật lại hỏi “Đã nghèo còn mang thêm nợ thì có phải  là tai ương không?”. Đệ tử đáp “Thưa phải”.Phật lại hỏi:” người đang mắc nợ lại vay thêm nợ nữa thì có phải là tai ương không?” Đệ tử đáp:” Thưa phải”.Phật nói”Đến lúc đó chủ nợ đến đòi nợ, người ấy không trả nổi bị chủ nợ làm nhục thế có phải là tai ương không?”. Đệ tử đáp”thưa phải”.


Với cái nhìn của Đức Phật, trong một hoàn cảnh nhất định, có đầy đủ những nhu cầu tối thiểu về vật chất lại quan trọng hơn là niềm tin tín ngưỡng. Có một người nông dân bị mất bò đi tìm suốt ngày vẫn không thấy, khi đi ngang nơi Phật đang thuyết pháp và muốn được nghe pháp, Phật biết anh ấy suốt ngày chưa được ăn uống gì nên Ngài gọi đệ tử chuẩn bị cơm  canh cho anh ấy ăn trước rồi sau mới nghe pháp. Điều này chứng minh rằng Đức Phật biết rất rõ, khi con người đang bị đói khát thì không thể nói đến vấn đề tín ngưỡng được. Không những thế sự nghèo khó luôn gắn chặt với bạo lực và tội phạm. Trong kinh “Dìgha Nikaya” dạy:”


“Sự thiếu thốn về văn minh vật chất làm cho nghèo khổ phát sinh, từ trong nghèo khổ mà trộm cắp hoành hành. Hơn nữa giết người, bạo lực, phỉ báng, chửi rủa, vọng tưởng, tà kiến, phi đạo đức và những dục vọng biến thái cũng từ đó phát sinh, thậm chí còn dẫn đến sự leo thang của tội ác, niềm tin tôn giáo bị phá vỡ và sự ổn định của trật tự xã hội sẽ không giữ được.”


Trong xã hội cổ đại của Ấn Độ với chế độ phân biệt giai cấp những giai cấp thượng đẳng như Bàlamôn có được cuộc sống vinh hoa phú quí, ăn trên ngồi trước; còn giai cấp hạ đẳng như Thủ-đà-la chỉ biết suốt đời làm nô lệ. Vì sao lại như vậy? Bởi vì kinh điển quyền uy Phệ Đà của Ấn Độ giáo cho rằng: giai cấp Bàlamôn được sinh ra từ miệng Phạm Thiên, giai cấp Thủ-đà-la được sinh ra từ gót chân của Phạm Thiên. Do vậy mà giai cấp Bàlamôn vốn sinh ra đã là giai cấp cao quí, còn giai cấp Thủ-đà-la thuộc về giai cấp hạ tiện nhưng Đức Phật phản đối điều này Ngài khẳng định, không có sự khác biệt vốn có của giai cấp mà chỉ có sự khác biệt về điều kiện kinh tế mà thôi.


Trong kinh” Sighalovada Sutta”. Đức Phật dạy:”Hạnh phúc và vận may vốn đến từ sức mạnh của kinh tế, không nợ nần và cuộc sống trọn vẹn về đạo đức”. Từ những điều trên chúng ta biết rằng Phật giáo không chấp nhận sự nghèo khó không phải là càng nghèo càng quang vinh. Phật giáo nhấn mạnh đến tinh thần đồng thời cũng đề cao sự quan trọng của vật chất. Phật giáo không bài trừ kinh tế vì trong kinh điển Phật giáo đã đề cập rất nhiều đến vấn đề kinh tế. Nhưng trong kinh điển Phật giáo đề cập đến vấn đề kinh tế không có nghĩa là có một lý thuyết về kinh tế học tồn tại trong kinh điển Phật giáo. Trong Phật giáo có hay không có kinh tế học cần phải được học giả nghiên cứu vì người viết sức học có hạn, khong dám quả quyết điều này nhưng khi đọc qua một số kinh điển Nam truyền sẽ có thể phát hiện được  một số khái niệm và lý luận quan trọng về kinh tế học hiện đại mà Đức Phật đã đề cập và đưa ra cái nhìn chính xác của Ngài như một hệ thống. Tuy nhiên, hệ thống này không thể tìm được trong một quyển kinh duy nhất mà chúng ta cần phải dụng tâm thu thập phân tích từ các lời dạy của Ngài trong hệ thống kinh điển và tổng hợp để hình thành nên một  khái niệm về kinh tế học của Phật giáo.


A.   TRUNG ĐẠO LÀ KINH TẾ HỌC PHẬT GIÁO


Kinh tế học Phật giáo được xây dựng trên nền tảng giáo nghĩa trung đạo Phật giáo.


Có một loại dục vọng chính là nhu cầu căn bản nhất của con người, nơi nào có con người nơi ấy nhất định sẽ tồn tạo dục vọng này. Đó là dục vọng tự nhiên, là nhu cầu tự nhiên căn bản nhất như ăn, uống, thuốc thang, sự quan tâm…Đây vốn là nhu cầu thiết yếu nhất, là dục vọng hữu hạn nhằm duy trì sự tồn tại của sắc thân nên Phật giáo chấp nhận nhu cầu ham muốn này. Phật giáo cho rằng chỉ khi nào nhu cầu căn bản này được đáp ứng thì mới có thể tiến cao hơn trong thế giới tinh thần được.


Ngoài nhu cầu căn bản ra, con người còn có một ham muốn khác đó là tham dục. Tham dục là hình thái của tội ác vì nó vượt qua khỏi nhu cầu căn bản của con người, là ham muốn quá đáng, ham muốn quá mức nên không thể đạt được trọn vẹn. Vì để thoả mãn tham dục nên con người đã bất chấp mọi thủ đoạn nhằm đạt được tham cầu của mình, tham dục không có giới hạn. Bạo lực và tội phạm phi đạo đức một mặt đến từ đói khổ, mặt khác cũng xuất phát từ tham dục. Do vậy Phật giáo không chấp nhận đói nghèo đồng thời cũng cự tuyệt tham dục.


Tham cầu là tai ương, nghèo đói cũng là tai ương. Phật Giáo đề xướng không tham cầu và không đói nghèo. Phật giáo cho rằng hết thảy mọi hoạt động  kinh tế đều phải tuân thủ nguyên tắc này tức là phải xuất phát từ nhu cầu căn bản nhất của con người. Đây chính là kinh tế học Trung đạo của Phật Giáo.


B.   SỬ DỤNG NGUỒN TÀI CHÍNH.


Kinh tế học là bộ môn nghiên cứu về hoạt động kinh tế. Hoạt động kinh tế là nghĩa rộng, nhìn gọn từ một góc độ thì kinh tế học có thể chia thành ba bộ phận là: tạo lập nguồn tài chính, phân phối nguồn tài chính và sử dụng nguồn tài chính có được. Bởi vì bất kể là sản xuất, kinh doanh hay phân phối điều có quan hệ mật thiết với việc sử dụng tiền của có được. Tài sản bao gồm hai mảng là tinh thần và vật chất.


Với quan điểm của Phật Giáo nguồn thu nhập của quốc gia hay cá nhân đều nên phân thành bốn phần để sử dụng.


1.       Một phần dùng cho nhu cầu thường nhật như ăn, mặc, ở, đi lại, y tế…


2.       Một phần để dành dùng khi cấp bách


3.       Một phần dùng kiến tạo công đức phước báo như bố thí, cúng dường, phúc lợi xã hội, viện trợ nước nghèo…


4.       Một phần dùng để đầu tư, tái đầu tư để mở rộng sự nghiệp, phát triển đất nước


Tiền tài dùng cho nhu cầu căn bản của cuộc sống con người, con người không phải là động vật kinh tế nên vật chất nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người, chớ con người không phải sống vì vật chất. Con người cần vật chất vì sinh tồn và hạnh phúc chứ không vì mục đích nào khác. Có được tiền tài chúng ta nên dùng nó để làm năm việc sau:


1.       Làm cho bản thân sung túc.


2.       Phụng dưỡng cha mẹ.


3.       Lo cho gia đình.


4.       Giúp đỡ đồng nghiệp, người thân.


5.       Cúng dường các bậc đạo đức tu hành.


Trong kinh “Vasala Sutta” Phật dạy nên biết đem tiền của phụng dưỡng cha mẹ, người không biết phụng dưỡng cha mẹ thời khó giàu có được. Lại trong kinh”Pattakama Sutta” Phật dạy tiền bạc nên dùng vào việc lo cho người thân, khách khứa công nhân viên chức của mình và đóng thuế cho nhà nước.


Phật Giáo cho rằng người dân đóng thuế cho nhà nước là điều phải làm vì nhà nước cần nguồn thuế thu được đó để giúp đỡ người nghèo, người tàn tật, người già neo đơn, để xây dựng công trình phúc lợi xã hội và công trình tiện ích công cộng phục vụ cho cuộc sống  của người dân trong nước. Nhưng Phật Giáo cũng khẳng định nhà nước không được đem tiền thuế của dân để xây dựng những công trình không thiết thực và tiêu tao lãng phí tiền  thuế mồ hôi nước mắt của người dân. Đức Phật đã từng chủ trương tiền thuế của dân không được chi dụng vào những hoạt động lễ lược rầm rộ, qui mô to lớn, liên hoan tiệc tùng lãng phí. Phật Giáo còn nhấn mạnh thuế không được lạm thu và quá cao làm đau khổ cho nhân dân, cũng giống như ong hút mật không thương tổn đến hương sắc của hoa. Phật Giáo phản đối một chính sách và chế độ thuế khóa khắc nghiệt.


Trong bộ kinh khác”Dhammajani Sutta” Phật dạy tiền bạc dùng trong việc xây dựng hạnh phúc cho bản thân, làm cho người khác được hạnh phúc, dùng dự trử cho mình, đóng thuế và tích tụ công đức.


Thế nào là công đức? Nhiều người nghĩ rằng công đức là cúng dường cho chùa miếu hay các bậc tu hành, thật ra thì không hoàn toàn như vậy mà đó chỉ là một loại công đức. Theo Phật Giáo phàm việc gì có lợi cho người, có lợi cho mình một cách hợp lý thì đều được coi là công đức như một thùng nước tưới cây, một vá đất đắp cây, hết thảy đều là công đức.


Trong kinh chia người sử dụng tiền tài thành ba hạng.


1.    Người chỉ biết cất góp tiền tài không dùng cho mình, không giúp người khác và cũng không làm công đức.


2.    Người chỉ sử dụng tiền tài cho hạnh phúc cá nhân, không giúp người và không làm công đức.


3.    Người biết dùng tiền tài xây dựng hạnh phúc cho mình, giúp đở người khác, cùng tích tập công đức.


Phật dạy người thứ hai tốt hơn hạng người thứ nhất là hạng người có tiền cũng như không vì không biết sử dụng tiền tài có được để kiến tạo hạnh phúc cho bản thân, giúp người, cùng tích tạo công đức nên đã lãng phí tiền tài mà mình có. Phật khen ngợi cách sử dụng tiền tài của hạng người thứ ba vì biết lo cho mình và cho người. Phật dạy làm người phải có tâm biết san sẻ cái mình có được với người khác vì thế giới là tập hợp những nhân duyên không ai có thể tồn tại độc lập mà phải nhờ vào sự giúp đỡ của người khác. Do vậy, khi nghĩ đến nhu cầu của bản thân đồng thời cũng phải biết nghĩ đến nhu cầu của người khác cùng san sẽ với họ những nhu cầu ấy.


Đức Phật khuyến khích mọi người sử dụng nguồn tài chính có được. Không nên chỉ biết tích góp để thành người bủn xỉn nhưng không đồng nghĩa với việc Đức Phật khuyên bảo mọi người lảng phí tiền bạc một cách không có ý nghĩa. Phật Giáo vốn dạy phải”Kiệm phước”, phản đối việc lãng phí, phản đối hai điều cực đoan nên Đức Phật dạy mọi người “Phải biết sử dụng nguồn tài  chính có được không bủn xỉn, không lãng phí, không dùng trong tội ác và những việc tìm ẩn điều nguy hiểm”.


Đức Phật dạy mọi người có sáu con đường làm cho tiền của của chúng ta bị tiêu tán.


1.    Ăn nhậu.


2.    Suốt ngày đi chơi rong ở phố phường.


3.    Đánh bạc.


4.    Chơi với bạn xấu.


5.    Lười biếng.


6.    Đắm đuối trong sắc dục.


Phật dạy một khi người dân trong nước chỉ biết sống với những điều trên thì đất nước sẽ suy tàn.


Phật Giáo phản đối việc chi tiêu lớn bởi vì.


1.    Việc chi tiêu phí lớn làm cho xã hội mất ổn định vì sẽ đào sâu hố phân cách giữa giàu và nghèo trong xã hội. Người giàu tận hưởng lắm vinh hoa còn kẻ nghèo thời ba buổi cũng chẳng no. từ đó người nghèo sẽ sinh đố kỵ và bất mãn, còn người giàu thì sinh tâm lo sợ thường nghĩ cách để bảo vệ tài sản và quyền hạn của mình làm cho xung đột xã hội phát sinh.


2.    Việc chi tiêu lớn làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên có hạn sẽ nhanh chóng cạn kiệt như dầu mỏ…một khi đã cạn thì không sao có thể có nữa được.


3.    Một khi con người đã bị dục vọng chi phối thì sẽ bất chấp thủ đoạn để nhằm thoả mãn tham dục của mình. Bất kể là chủng tộc, quốc gia hay cá nhân đều như vậy cả. Một số nước vì để duy trì việc chi tiêu lớn của mình nên đã không ngừng phát động chiến tranh. Sự chi tiêu ở mức cao thường phát nguồn từ tham muốn quá mức nó không phải được kiến lập trên nền tảng của những nhu cầu thiết yếu nên nó không phù hợp với nguyên lý kinh tế học của Phật Giáo, Đức Phật dạy chúng ta không được chi tiêu vượt quá nguồn thu nhập vì như vậy sẽ làm mất cân đối thu chi  trong cuộc sống của mình. Phật Giáo còn dạy mọi người phải cẩn trọng giữ gìn nguồn tài sản của mình  chống mất  trộm, hoả hoạn, lũ lụt, kẻ thù, bạn xấu và xúc phạm đến công quyền. Đức Phật khuyên chúng ta phải biết để dành một phần nguồn tài chính của mình cho tương lai nhằm đảm bảo nhu cầu căn bản và cũng để dự phòng khi gặp thiên tai lũ lụt, hạn hán và dịch bệnh… vì cuộc sống của tương lai cần phải biết tích trữ nhưng nguồn tích trữ này không được là kết quả của sự chi tiêu lớn mà phải là nguồn tiết kiệm từ trong những nhu cầu thường nhật. Nói cách khác đầu vào của nguồn tài chính để dành có liên hệ vấn đề sản xuất ra loại sản phẩm gì. Vì như thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng sản phẩm cần thiết thì sẽ giảm đi việc chi tiêu lớn như vũ khí, ma tuý chất gây nghiện không cần thì không nên chi tiêu mà phải loại trừ thì thị trường sẽ không nãy sinh vấn đề giá cả leo thang và thiếu thốn nguồn sản phẩm cần thiết trong cuộc sống, nên đất nước và nhân dân sẽ có được nguồn tiền tích lũy.


Phật Giáo cho rằng nguồn tài chính để dành phải được chi dụng cho nhu cầu căn bản nhất không được dùng nó để sản xuất vũ khí, chất gây nghiện, độc dược và những sản phẩm thoả mãn sắc dục độc hại. Nguồn vốn tích luỹ phải dùng để phát triển kinh tế và nhân văn. Nói đến việc tích  luỹ không thể không nói đến sự nợ nần. Phật Giáo cho rằng không nợ là một trong bốn loại hạnh phúc của con người. Nếu ngập tràn trong nợ thì chính là tai hoạ, đất nước cũng vậy, cá nhân cũng vậy đều cần tránh những món nợ lớn dù trong nước hay ngoài nước, nên cần giảm thiểu đến tối đa việc vay nợ, nếu việc vay nợ là cần thiết thì phải được chi dùng cho những nhu cầu căn bản mà thôi.


Nợ và nghèo vốn đi liền với nhau. Trên thế giới này bất kể là nước giàu hay nước nghèo luôn tồn tại nghèo khốn. Ơ những nước giàu mặc dù vất phẩm gia tăng rất nhanh nhưng vẫn không xoá bỏ được nghèo khó. Như nước Mỹ ngày nay vẫn còn mấy trăm nghìn người sống dưới mức nghèo khó. Đức Phật khẳng định nghèo khó là tai nạn cần phải được xoá bỏ.


Phật Giáo cho rằng có 3 nguyên nhân làm cho nghèo khó là:


1.    Sự phân bố tài nguồn tài nguyên thiên nhiên không đồng đều, nơi nào nguồn tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn thì nơi ấy sẽ rất dễ rơi vào tình trạng nghèo khốn. Đây là căn nguyên  tự nhiên.


2.    Một số người nghèo khó vì say đắm  tửu sắc, hành vi bất chính, lười biếng…Đây là nguyên nhân cá nhân.


3.    Những chính sách sai lầm của nhà nước đặc biệt là những chính sách kinh tế sai lầm là nguyên nhân căn bản nhất dẫn đến sự nghèo nàn.


Trong kinh “Digha Nikaya” đã dẫn chứng những bậc vua chúa đã đưa ra những chính sách sai lầm hay những chính sách không có ích lợi là làm cho đất nước và nhân dân nghèo khó. Xoá bỏ nghèo nàn là điều có thể làm được vì nguồn lợi  thiên nhiên nghèo nàn có thể dựa vào sự hợp tác của khu vực hoặc quốc gia để phân bổ và khắc phục, hành vi sai lạc của cá nhân có thể được sửa đổi bằng sự phát triển của tinh thần, còn chính sách sai lầm cũng có thể giảm thiểu đến  mức thấp nhất.


(còn tiếp) (Phần hai – cuối)


Thích Giải Hiền, Thạc sĩ Đông Nam Á học, Nghiên cứu sinh