Tôi được đọc bài “Khó chấp nhận trên dòng chảy truyền thống” của GS.TS Trần Lâm Biền nói về những ngôi chùa to, đăng trên báo Khoa học & Đời sống ra ngày 22/07/2010.
Dù là dưới dạng trò chuyện (do P.V Mai Anh thực hiện) nhưng bài viết đã đưa ra những thông điệp, những nhận định mà theo tôi cần được trao đổi lại, không ngoài mục đích đúng đắn chung, trước những vấn đề còn có những ý kiến khác nhau.
Để tiện theo dõi, chúng tôi sẽ trao đổi lại từng vấn đề mà phóng viên đã nêu ra và quan điểm của GS Trần Lâm Biền.
1. “Nhập vào chùa nhiều chứ không phải Phật”.
– “Đạo mẫu bắt nguồn từ đời nguyên thủy từ mấy nghìn năm trở về trước. Chỉ cách đây 2000 năm đạo Phật mới tới …”.
Ở đây có sự sai lầm cơ bản. Tín ngưỡng thờ Nữ thần có từ nguyên thủy cách đây mấy nghìn năm, nhưng từ tín ngưỡng thờ Nữ thần tới tín ngưỡng thờ Mẫu, rồi tới đạo Mẫu là cả một quá trình lâu dài của lịch sử. Với những tư liệu mà hiện nay chúng ta có được, Đạo Mẫu ở Việt Nam, với những chuẩn tắc nghi lễ tương đối chặt chẽ, chắc chắn không thể có trước thế kỉ thứ X sau Công nguyên.
– “Gần đây một số kẻ đã lợi dụng và biến đổi đạo Phật đi rất nhiều… Bộ phận này vì không hiểu biết đến nơi đến chốn đạo Phật đã nhập vào chùa nhiều thứ không phải Phật”.
Nhận định trên đây rất chủ quan, thiếu cơ sở, thể hiện trình độ Phật học và Phật giáo sử của ông T.L.B. có vấn đề!
Về giáo lý, tư tưởng, triết học Phật giáo là nhất quán (theo Kinh tạng), nhưng với tư cách là một hệ thống tôn giáo – triêt học – văn hóa – đạo đức – lối sống thì Phật giáo chủ chương “Tùy thời tùy quốc độ” (Tùy theo thời đại, phong tục tập quán của mỗi nơi nó đến mà có cách thức phương tiện truyền bá cứu độ khác nhau).
Không chỉ ở Việt Nam, Phật giáo đến bất cứ quốc gia nào đều nhanh chóng “tùy duyên” hòa nhập với tín ngưỡng, tôn giáo và phong tục tập quán nơi nó đến, trên cơ sở cái cốt lõi “bất biến” là tư tưởng giáo lý trong Kinh tạng. Thế là có tính biện chứng, có tính cụ thể, có tính lịch sử đấy chứ! Đó là cái hay, cái quý của Phật giáo mà ông không biết, không hiểu hay cố tình không hiểu, không biết?
Vì thế mà trong Phật giáo sử, mới có “Phật giáo Trung Quốc”, “Phật giáo Ấn Độ”, “Phật giáo Thái Lan”, “Phật giáo Việt Nam”… mang sắc thái riêng của mỗi quốc gia, dân tộc. Do vậy, việc “nhập vào chùa nhiều thứ không phải Phật” là chuyện bình thường trong lịch sử, đã diễn ra từ buổi đầu Phật giáo được du nhập vào Việt Nam (hệ thống Phật Tứ Pháp chẳng hạn) cho đến ngày nay.
Vùng châu thổ sông Hồng hiện còn nhiều ngôi chùa Tam giáo, ngay ở cố đô Huế, ngôi chùa có dạng thức “Tiền Phật hậu Thần/Thánh” hoàn toàn không xa lạ với bà con Phật tử, nó góp phần tạo nên bản sắc của Phật giáo Việt Nam.
Việc thiết trí thờ tự nơi Phật điện có phối thờ một số vị thần của đạo Nho, đạo Lão và tín ngưỡng dân gian Việt Nam đã có từ trong lịch sử, do lịch đại Tổ sư danh Tăng thiết trí, phản ánh nhu cầu tâm linh tín ngưỡng của Phật tử chứ không phải do những “kẻ lợi dụng…không hiểu đến nơi đến chốn đạo Phật” bày đặt để hôm nay “kẻ không hiểu đạo Phật đến nơi đến chốn” phê phán!
Đương nhiên không ai phủ nhận hiện trạng đáng báo động hiện nay là không ít người (có cả tu sĩ Phật giáo) không ít nơi (có cả chùa chiền) lợi dụng tôn giáo thực hành mê tín dị đoan, làm sai chính pháp, nhưng đó lại là câu chuyện khác.
Việc ngăn ngừa, tiến tới bài trừ mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh…là mối quan tâm, là việc làm thường xuyên của các cơ quan hữu quan của Nhà nước và của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Còn việc tại sao không ngăn ngừa bài trừ được lại là chuyện khác, ở những diễn đàn với chủ đề khác.
Cứ theo ông Biền thì, để tránh bị lợi dụng, phải xóa bỏ lịch sử, làm mới từ đầu, bỏ hết tượng phối thờ ra khỏi chùa? Tôi quả thực không thể lường nổi những hệ lụy gì sẽ xảy ra: lòng dân hoang mang, hoặc giả người ta biến bàn thờ Tổ thành điện thờ Phật Thánh, thậm chí trong dân gian phát sinh không ít điện thờ, ban thờ dưới cây đa, gốc gạo! Hãi thật!

Ông Trần Lâm Biền
2. “Bái Đính – sự khoe mẽ một cách thái quá”
– Ông Trần Lâm Biền cảnh báo: “không nên gọi cái chùa mới xây dựng là chùa Bái Đính, gọi như vậy hoàn toàn xóa sổ chùa của tổ tiên đấy!”
Ô hay! Có gì mà quan trọng, mà hoảng hốt vậy? Thì chùa Bái Đính cũ (Bái Đính Cổ Tự) vẫn còn đấy, vẫn là nơi diễn ra các hoạt động tín ngưỡng tôn giáo của dân xã Gia Sinh nói riêng và cư dân trong vùng nói chung. Chỉ có điều, cùng với quá trình xây dựng chùa mới, chùa Bái Đính cũ được trùng tu trang nghiêm hơn, tố hảo hơn mà thôi.
Bái Đính là tên gọi một cách cung kính thiêng liêng (Bái) về một địa danh (Đính Sơn – Núi Đính), nơi có đền thờ Thần Núi – Cao Sơn, có chùa cổ, có điện thờ Mẫu tương truyền do Quốc Sư Nguyễn Minh Không sáng lập, nơi vua Đinh Tiên Hoàng lập đàn tế cáo trời đất…
Phàm là du khách hay Phật tử có chút tri thức, có tâm và có thời gian khi đến Bái Đính mới xây dựng đều hành hương chiêm bái khu Bái Đính Cổ Tự, cách độ gần một km.
– “Ngôi chùa mới đó có một sự lố bịch”. Tôi thực sự bị “sốc” trước nhận định nặng nề của ông T.L.B. nhưng cố nhẫn để đọc tiếp xem hay mình có chủ quan định kiến, bởi có không ít hơn 3 lần tôi đã tới cả Bái Đính Cổ Tự và Bái Đính mới xây, là người nghiên cứu Phật học biết chút ít về lịch sử Việt Nam, Phật giáo Việt Nam, tôi vẫn tự hào về nó.
Kiên trì đọc, cố gắng lắm tôi mới hiểu được “cao ý” của ông Biền chỉ ra cái “lố bịch” của chùa Bái Đính mới: “…tháp Cửu phẩm liên hoa – là thế giới của người chết. Nhưng chùa Bái Đính mới ấy lại có cái gọi là tam quan – ba tầng mái ở ngoài, khiến người ta đến với cái chết trước khi đến với Phật… Cái chùa Bái Đính mới ấy là phi văn hóa Phật giáo truyền thống và mặt nào nó có tính khoe mẽ”.
Ở một tầm hiểu biết chung chung, cơ bản nhất về Phật giáo, không ai quan niệm tháp Cửu phẩm liên hoa “là thế giới của người chết” như ông Biền hiểu! Nó là biểu trưng của quan niệm về “sự chết” để “sống” tốt hơn, đó là nhân sinh quan có tính nhân văn, nhân đạo rất cao của triết học Phật giáo.
Cũng vậy, không ai có chút kiến thức sơ đẳng về Phật học lại đồng nhất kiểu “kiến trúc ba tầng mái” với “tam quan” như ông Biền, để rồi phê phán. Kiến trúc kiểu ba tầng mái là mô – típ khá phổ biến trong các công trình kiến trúc cổ phương Đông, còn tam quan trong kiến trúc và triết học Phật giáo lại mang ý nghĩa khác.
Tam quan (còn viết và đọc là “tam quán”) là một phạm trù lớn, cực kỳ sâu sắc trong Duy thức học Phật giáo, là “không quan”, “giả quan” và “trung quan”: phải nhìn nhận, quán xét thế giới hiện tượng và sự vật đều là “không”, là “giả” nhưng đồng thời cũng phải có cái nhìn “trung” đạo, nghĩa là không “không” cũng không “giả”!
Đó là quan điểm nhận thức luận cực kì vĩ đại, thống nhất giữa biện chứng chủ quan và biện chứng khách quan của nhận thức luận Phật giáo, không dễ gì hiểu được. Còn trong kiến trúc, hầu hết mỗi ngôi chùa Việt đều có ba cửa ra vào (chữ Hán viết chữ “quan” này với nghĩa là cửa ra vào), cửa chính ở giữa là cửa “Từ – Bi – Hỉ – Xả”, hai cửa hai bên là cửa “phương tiện”; ba cửa này cũng được hiểu là “Tam môn” (cửa chính giữa là “Không môn”, cửa bên phải là “Giải thoát môn”, cửa bên trái là “Bất nhị môn”, đó là những phạm trù lớn trong hệ thống triết học Phật giáo)…
Không hiểu do cảm xúc chủ quan nào đó hay nông cạn về kiến thức, nhưng theo chúng tôi, rõ ràng sự phê phán “sự lố bịch” của ngôi chùa Bái Đính mới xây chỉ là “một sự phê phán lố bịch” không hơn không kém!
– Ngôi chùa mới xây là “một sự khoe mẽ thái quá”.
Ông T.L.B. cho rằng: việc xây chùa Bái Đính to quá khiến cho khi bước vào chùa khiến cho tâm hồn người ta bị “ngợp”, bị teo bé, bị áp lực tinh thần nào đó…, rằng “sự vĩ đại của nó là ở cái tâm thánh thiện chứ không phải là hình thức. Có thể hiện tại cái hình thức đang làm mờ cái tâm nhưng khi cái trí của mỗi người phát triển cao hơn thì họ sẽ nhận ra đó là sai lầm”.
Tôi ngờ rằng ông Biền chưa phân biệt được sự khác nhau giữa cái “tâm” cái “trí” của triết học Phật giáo với cái “tâm” cái “trí” của thế gian. Nhưng thưa ông! Cứ theo lẽ thông thường, cái tâm con người có bị ngợp, bị teo nhỏ, bị áp lực…hay không là do ở nơi tâm thế, năng lực trí thức của con người, không gian và kĩ thuật – nghệ thuật kiến trúc…chứ không phải là to hay bé.
Hơn nữa, xét về tính qui mô và mĩ lệ, chỉ cần bước qua biên giới, tới thăm những danh lam thắng tích ở Côn Minh – Trung Quốc hoặc hai nước bạn Lào và Căm-pu-chia, thì một người dân Việt có lòng tự tôn dân tộc, có lương tâm và công bằng, có nên hạ bút phê phán chùa Bái Đính mới xây một cách nặng nề như vậy?
Đành rằng mọi sự so sánh đều khập khiễng nhưng trong mỗi đợt tham quan khảo sát, mỗi lần ngỡ nhìn một tòa văn chỉ, một ngôi đình làng Trung Quốc, tôi không khỏi chạnh lòng nghĩ về Văn Miếu – Quốc Tử Giám, về kinh đô Huế quê nhà đất Việt!
Bái Đính mới xây đương nhiên là còn chưa có cảnh quan thâm u cổ kính, nhưng năm mươi, một trăm năm sau, và lâu hơn nữa, thế hệ con cháu mới có những danh lam thắng tích do cha ông để lại, đủ để sánh vai cùng với các nước trong khu vực.
Ngôi chùa Quán Sứ (trụ sở của Trung ương Giáo hội Phật giáo nay) vốn xưa là ngôi chùa nhỏ của thôn An Tập, là nơi cho các sứ thần các nước theo đạo Phật tới lễ Phật trong khi chờ tiến triều, với bao hằng tâm hằng sản của các chư Tăng và nhân dân vào những năm ba mươi của thế kỷ trước mới có ngôi chùa mới trên nền chùa cũ để đến hôm nay chúng ta mới có một danh lam cổ tự không những là trung tâm tín ngưỡng của Phật tử trong và ngoài nước mà còn là điểm nhấn thu hút khách du lịch tới Thủ Đô đó là tấm gương về cái tâm, về trách nhiệm của thế hệ hôm nay đối với mai sau.
Tôi xác tín và mong rằng, “khi cái trí mỗi người phát triển cao hơn” , đất nước giầu mạnh hơn, thì những danh lam thắng tích càng được tu bổ, xây dựng mới to đẹp hơn chứ quyết không phải ngược lại như ông Biền dự đoán!

Cư sĩ Quảng Tuệ Lương Gia Tĩnh
3. “Có thể ngành văn hóa cũng không biết đến điều ấy. Đến khi biết thì sự đã rồi”
Kinh quá! Mọi người đều không biết, vậy thử xem chỉ mình ông Trần Lâm Biền biết và “dạy” những điều gì?
– Ông cho rằng: “Đừng đem những ngôi chùa lớn vào đất chùa cũ”, “Dù nó có tàn phai thì vẫn để đấy”, xây chùa mới to lớn khang trang là phá hoại, làm méo mó tâm hồn dân tộc. “Một dân tộc có thiện tâm vô cùng cao quý nay lại chỉ quan tâm đến hình thức”.
Một tư duy không bình thường hay chủ ý đánh tráo khái niệm để ngụy biện?
Nhà ông… xưa nghèo khó chỉ lợp tranh vách đất, bàn thờ tổ tiên tạm bằng tấm ván đóng gá vào vách đất…nay con cháu khá hơn (chí ít thì theo mức sống lịch sử), nhưng không đủ tiền mua đất mới, chẳng lẽ lại không được xây một ngôi nhà mới trên đất tổ tiên cho to lớn khang trang hơn để ở, đặt ban thờ tổ tiên trang nghiêm tố hảo hơn hơn để thờ tự? Làm như vậy là phá hoại truyền thống gia đình, làm méo mó bản sắc gia phong?
Không phủ nhận hiện tượng “làm mới di tích” một cách tùy tiện có xu hướng ngày càng ra tăng, nó đã góp phần phá hoại di tích. Việc trùng tu tôn tạo di tích, đặc biệt là những di tích đã xếp hạng, đã được Luật Di sản qui định, và là mối quan tâm của các cơ quan văn hóa cũng như Giáo hội Phật giáo Việt Nam, mà trực tiếp là Ban văn hóa thuộc Trung ương Giáo hội. Đây là câu chuyện hoàn toàn khác với việc xây một ngôi chùa mới, một ngôi tháp mới trên nền một ngôi chùa cũ, tháp cũ chỉ còn là phế tích – như ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh), tháp Tường Long (Hải Phòng) gần đây chẳng hạn.
Hơn nữa, vấn đề này cũng chẳng liên quan gì tới chùa Bái Đính mới xây mà ông Biền đang bàn.
Còn chuyện “cái tâm cao quí” và cái hình thức “to lớn khang trang”! Tôi hiểu rằng, với một cái tâm trong sáng, tròn đầy, tĩnh lặng thì có một hình thức trang nghiêm tố hảo cũng chẳng phương hại gì, mà chỉ có chiều hướng tích cực, tốt hơn cho cả hai. Biện chứng Mác – xít gọi là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, Nho giáo gọi là mối quan hệ giữa “văn” và “chất”, còn Phật giáo thì gọi là “Tâm” và “Tướng”!
– Và cuối cùng, ông Biền cho rằng: “Đừng để những ngôi chùa kiến trúc mới (hẳn ông định tỷ như chùa Bái Đính mới) Tây không phải Tây, Tàu không phải Tàu…làm một cách tùy ý không theo kiến trúc truyền thống”.
Đọc qua nhưng không thấy ông Biền chỉ ra đâu là “Tây không ra Tây, Tàu không ra Tàu”, mà chỉ thấy ông dùng một mớ kiến thức hổ lốn Nho, Phật, Đạo (mà thứ kiến thức ấy cũng “không đến nơi đến chốn” – chữ của ông Biền) để phán: “một ngôi chùa hay đền, đình phải đạt chuẩn thông tam giới. Mái tượng trưng cho tầng trời. Đất – thân nó là nơi thần và người tiếp cận, cần phải được thông nhau”!; và cụ thể hơn, “nền đất phải để mộc, không được lát gạch men hoa, nếu có thì lát gạch bát thấm nước, mạch để rộng, gầm ban thờ phải để lộ đất…!”
Lủng củng quá, luận mãi rồi mới hiểu, rằng ông đã lầm lẫn giữa hai khái niệm cơ bản của Nho giáo là “Tam tài” (Thiên – Địa – Nhân) và Phật giáo là “Tam giới” (Dục giới – Sắc giới – Vô Sắc giới).
Còn theo “dòng truyền thống”, nhưng ông nói, là nền chùa phải để mộc, gầm ban thờ Phật phải để lộ đất “để âm dương không bị cách trở”…thì quả đúng là chỉ có ông Giáo sư Tiến sĩ Trần Lâm Biền mới biết được và làm được!
Tóm lại, chúng tôi khó chấp nhận những ý kiến của ông Trần Lâm Biền qua bài “Khó chấp nhận trên dòng chảy truyền thống”. Chúng tôi sẵn sàng trở lại vấn đề này trong những dịp thảo luận chuyên sâu hơn, mang tính học thuật cao hơn.








