Trang chủ Thời đại Xã hội TS Nhất Hạnh: Đạo Phật có thể đóng một vai trò rất...

TS Nhất Hạnh: Đạo Phật có thể đóng một vai trò rất quan trọng trong thời đại này

139

Tư tưởng của ông, trong những cuốn sách và những bài thuyết giảng, là một sự pha trộn khó hiểu giữa giáo lý Đại Thừa và tư tưởng nhập thế của Nho gia. Nó ca ngợi sự chia sẻ cộng đồng nhưng lại cổ xúy cho sự tận hưởng của cá nhân trong thời khắc hiện tại…Vì những sự mơ hồ và khó hiểu ấy, chúng tôi tìm cách phỏng vấn ông ngõ hầu hóa giải những điều đó.


Một phóng viên VieTimes tìm được số điện thoại của nhà sư – thư ký của ông trong những chuyến trở về Việt Nam. Sau nhiều lần liên lạc không thành công, cuối cùng lần thứ chín cũng dừng lại và cuộc hẹn được thực hiện.



Sài Gòn đầu tháng Ba, nắng oi bức. Chúng tôi thuê một lái xe đến lái chiếc xe của VietNamNet lên Lâm Đồng, nơi ông đang thuyết giảng. Cậu lái xe rất trẻ, khoảng 20 tuổi, nghe nói đến việc đi Lâm Đồng thì chần chừ giây lát vì đường ngoằn ngoèo khó đi. Chiếc xe lại không hợp với cậu vì cậu không biết phanh và còi nằm ở vị trí nào.



Cuối cùng xe cũng nổ máy tìm cách ra khỏi thành phố. Chiếc xe lạng bên trái, chúng tôi xô sang bên phải, chiếc xe lạng bên phải, chúng tôi chúi về phía trước. Tay lái của cậu run bần bật. Cậu nói trong hơi thở: Em chỉ quen lái xe tải chứ chưa lái xe này bao giờ. Sau khi xe húc vào dải phân cách, cảnh sát giao thông chặn lại thực hiện luật, may thay, chúng tôi nhờ được một lái xe lão luyện ở Thông tấn xã Việt Nam, lại tiếp tục hành trình.



Đến Lâm Đồng, trời đổ mưa tầm tã. Những cơn mưa trái mùa lần đầu tiên xuất hiện. Mưa, thiền sư, kinh kệ, những tư tưởng, những sự chia sẻ, lái xe, dải phân cách… Chẳng có gì liên quan đến nhau cả. Trong sự liệt kê đó không có chút tư tưởng nào hết. Bạn đừng nhầm. Mà quên, có một thứ đấy, đó là hai chúng tôi, những người đang đi thực hiện cuộc phỏng vấn này.



Bạn có định hỏi cảm giác của tôi khi đi phỏng vấn và gặp những điều như vậy thì thế nào không? Đói, lúc đó đói thật. Lại thêm lời cảnh báo rằng ngày hôm sau sẽ chỉ có cơm chay! Thế thì phải tìm cái gì cho hết đói đã. Chân lý đấy. Đó có lẽ là một chân lý cổ xưa nhất của con người. Nếu đói thì cần phải ăn. Tuy nhiên mỗi thời đại, với quá nhiều sự chế biến thực phẩm khác nhau, con người đã đánh mất ý nghĩa thiêng liêng của chân lý ấy.



Cái đói chân lý, chỉ có một ít người còn nhớ được. Ngay cả chúng tôi cũng không nhớ. Chúng tôi chỉ nhớ rằng cần một ít thực phẩm. Và chúng tôi “phải” tìm ra nó. Tám giờ tối, quái lạ, không còn một quán ăn nào mở cửa hết. Lần này điềm báo rõ ràng hơn. Điều chúng tôi có thể tìm được không phải là thực phẩm…



Buổi sáng, tăng ni phật tử và khách thập phương đã chen chúc theo chân ông đi dạo trong đồi thông. Vừa đi họ vừa hát những bài ca nào đấy. Tôi không rõ nghĩa nhưng nhìn nét mặt họ thì đa số đều hoan hỉ. Cuộc đi giống như một cuộc trình diễn trong phim ảnh nhưng được pha trộn bởi trang phục và tiếng chuông nên sự bí hiểm ngày một tăng.


Cuối giờ chiều, chúng tôi bắt đầu cuộc phỏng vấn. Ông nói nhiều, thường không trả lời trực tiếp vào câu hỏi ngay lập tức. Ông hay dùng giáo lý để dẫn câu trả lời vào những con đường quanh co hơn cả câu hỏi.



Sau gần hai tiếng trò chuyện, chúng tôi có nhiều cảm xúc lẫn lộn, khi thấy ông là một thiền sư, khi thì thấy ông là một nhà hoạt động xã hội, khi thì là một triết gia duy tâm. Nhưng cái cảm giác rõ ràng nhất lại là cảm giác ông vẫn giữ được tinh thần văn hóa dân tộc Việt trong máu thịt. Trong đó, những tư tưởng minh triết nhất của văn hóa dân gian Việt Nam vẫn bừng sáng và mạnh hơn cả giáo lý mà ông hằng thực hiện. Chúng tôi cảm nhận như vậy. Còn bạn, bạn hãy đọc phỏng vấn này trước khi đồng ý với chúng tôi rằng cái đói của chúng tôi chính là cái đói mà con người hiện đại Việt Nam chưa biết tìm ra dòng sữa vô tận từ chính nền văn hóa thiêng liêng của mình.

Sau đây là nội dung cuộc nói chuyện của chúng tôi với Thiền sư Thích Nhất Hạnh


Phóng viên: Thưa thiền sư, hiện nay Phật giáo ở mỗi nước đều mang tinh thần khác nhau. Những tư tưởng của đạo Phật mà hiện nay đang được thiền sư truyền bá, bồi dưỡng thường được gọi là Thiền Việt, thiền theo kiểu người Việt. Vậy nền văn hoá Việt Nam có những nét đặc sắc gì ảnh hướng tới Phật giáo?



Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Văn hóa Việt Nam ảnh hưởng tới Phật giáo và Phật giáo ảnh hưởng tới văn hóa Việt Nam. Trong thời đại Lý, Trần, đạo Phật đã đóng góp nhiều cho sự dựng nước và làm cho nước mạnh. Cố nhiên là khi nhìn vào đạo Phật Việt Nam mình thấy được cái văn hóa Việt Nam. Mình thấy được hình thức, kiến thức âm nhạc, nghi lễ thực tập có tính Việt Nam. Đạo Phật là một yếu tố rất căn bản trong việc xây dựng nền tảng của văn hoá Việt. Những người không tự nhận mình là phật tử cũng có những chất liệu Phật giáo ở trong máu huyết của họ. Đôi khi trên phương diện tư duy, họ nghĩ họ không dính đến đạo Phật nhưng kỳ thực con người của họ được làm bằng rất nhiều những chất liệu của nền văn hoá Phật giáo. Vì cha ông mình đã như vậy rồi thì mình tiếp nhận cái đó một cách rất trực tiếp, tự nhiên.



Sáng nay tôi nói tới đạo Phật dấn thân. Cái đó nó nguồn gốc Việt Nam, năm xưa khi đi ra ngoài để kêu gọi hòa bình, tôi có viết cuốn Hoa Sen Trong Biển Lửa (Lotus in sea of the fire) bằng tiếng Anh, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Tôi nói rằng chiến tranh Việt Nam biến thành biển lửa nhưng mà có sức sống tâm linh trong đó, thành thử trong biển lửa nó có một sự kháng cự và có một đài hoa sen mọc lên mà không bị cháy trong lửa. Cái đó là đạo Phật của Việt Nam, cái đó là yếu tố làm cho mình không bị ngập tràn bởi bạo động, bởi căm thù, bởi chiến tranh. Tây phương họ rất thích tinh thần đạo Phật nhập thế. Âu châu với Mỹ châu là địa bàn của Kitô giáo, khi mình đem hạt giống của Phật giáo Việt Nam sang và gieo xuống thì nó mọc rất tốt vì nó rất đúng lúc.



PV: Đạo Phật không khuyến khích việc quá coi trọng đến của cải vật chất. Nhưng đấy lại là một trong những mục tiêu phấn đấu của xã hội hiện đại. Trong một xã hội có nhiều của cải, nhiều vật dụng, đạo Phật sẽ có một vị trí như thế nào?



TNH: Đạo Phật có thể đóng một vai trò rất quan trọng trong thời đại này. Trong thời đại mà mọi người bỏ hết tâm trí và thì giờ đuổi theo sự thành công trong lĩnh vực thương mại. Tôi đã từng nói trong lễ dâng hương ở Âu châu và Mỹ Châu là họ cũng khổ đau lắm, họ bị cuốn hút theo cái doanh nghiệp của họ, họ không có thì giờ lo cho bản thân, không có thì giờ lo cho vợ cho con và nó (điều đó) tạo ra nhiều khổ đau. Đa số chúng ta tin rằng hạnh phúc sẽ có nếu mình có tiền bạc thật nhiều, quyền lực thật nhiều và danh vọng thật nhiều. Khi mà bình tâm mình nhìn xung quanh mình thì mình sẽ thấy có nhiều người có ba cái đó nhưng lại rất đau khổ.



PV: Nhưng chúng ta đã và đang phấn đấu cho một xã hội giàu có và văn minh. Con người hiện đại càng ngày càng làm ra nhiều của vật chất một cách chính đáng và việc họ dùng của cải vật chất để thỏa mãn các nhu cầu của mình cũng chính đáng như cách họ làm ra chúng.



TNH: Đạo Phật không chống lại chuyện làm giàu, có thể nói như vậy là vì ngày xưa có một phật tử rất giàu, nhưng ông cũng bị kẹt vào cái đó (sự giầu có). Nhưng khi cần bỏ thì ông bỏ, vậy cho nên ông có rất hạnh phúc. Nhờ sự thực tập nên có những khó khăn mà ông vẫn cười tươi như thường. Vì ông đã có con đường tâm linh.


Trong đạo Phật thì người ta có tập để mình nghiệm ra ba cái đức. Cái năng lượng đầu tiên gọi là đoản đức. Đoản đức tức là khả năng chặt bỏ những dây mơ dễ má, những sự cùn nó làm cho mình lao đao. Đoản tức là có trí và ta có trí tuệ mới cắt đứt được cái đó.



Thứ hai là trí đức. Phải có trí tuệ, phải có cái nhìn sâu về sự vật và con người mà cái đó là cái tuệ giác, phải tu thiền, phải có thì giờ để chiêm nghiệm, thì mới có được mà khi có trí đức rồi thì có thể giải quyết các vấn đề một cách mau chóng những gì làm cho mình sợ hãi, tuyệt vọng, bế tắc, chán nản. Nhờ cái trí tuệ đó mà mình thâu được rất là mau, mà mình thâu được cho mình và những người xung quanh.



Cái đức thứ ba gọi là ân đức. Ân đức tức là khả năng tha thứ và khả năng thương yêu. Thành thử ra nếu mà có ba cái đức đó tức là đoản đức, trí đức và ân đức thì nhà chính trị và nhà doanh thương sẽ không bị kéo đi về các nẻo đoạn trường và sẽ thành công được, giúp được gia đình và giúp được dân trong nước, giúp được tổ quốc.



Bạo động là khi mình tước đoạt đời sống của người khác:



PV: Ở Miền Nam trước năm 1975, có rất nhiều phật tử xuống đường, tham gia vào phong trào đấu tranh thống nhất đất nước. Những phong trào đấy thể hiện sự khao khát mãnh liệt, một khao khát đại đoàn kết dân tộc của người dân Việt Nam. Cái khao khát ấy đôi khi nó còn mạnh hơn cả tinh thần Phật giáo mà họ đang theo đuổi bởi vì tinh thần của đạo Phật là tinh thần bất bạo động. Vậy thiền sư nhìn nhận về vấn đề ấy như thế nào?













Giáo sư, Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm – Trưởng Khoa Văn hóa, Đại học Khoa học Xã hội  và Nhân  văn, Thành phố Hồ Chí Minh:


Phật giáo muốn vào Việt Nam, muốn đi vào lòng người, muốn phổ biến phải mượn hình thức của tín ngưỡng dân gian, điển hình là tín ngưỡng tứ pháp, mây mưa sấm chớp. Nên giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, hai cái pha trộn vào nhau trên nhiều phương diện. Người bình dân thường không (cần) hiểu Phật giáo như trí thức hay sách vở nói, họ chỉ hiểu những gì đi từ trong dân gian ra.

 


TNH: Khi mà mình tranh đấu cho nhân quyền, cho tự do thì mình (vẫn) có thể tranh đấu bằng phương pháp bất bạo động. Việc hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu thì cái đó (vụ tự thiêu để phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo) do tình thương mà hy sinh chứ không phải là do bạo động. Bạo động là khi mình tước đoạt sự sống của người khác mới gọi là bạo động còn mình gánh chịu cái đau khổ một mình để cho thông điệp của mình được truyền đi trên khắp thế giới, để thế giới tới yểm trợ cho phong trào bất đạo động của mình, thì cái đó không gọi là bạo động, không gọi là tự tử. Ví dụ như mình tuyệt thực thì có thể mình đói đến mức chết luôn cái đó không phải là tuyệt thực, cái đó tức là lấy cái sự đau thương đi vào trong mình, giáng chịu để làm cảm động lòng người. Khi mà lòng người cảm động thì phong trào có thành tích lớn.



PV: Trong đạo Phật, khi một người gây ra một hành động nào đó, thì người ấy sẽ phải chịu hậu quả của hành động đó. Trong quá khứ và hiện tại thì người đó phải nhận và chịu chi phối trong vòng luân hồi của mình. Vậy thì khái niệm tha thứ trong đạo Phật được hiểu theo nghĩa như thế nào?



TNH: Tha thứ là khi mình nhìn sâu (vào sự kiện nào đó) mình thấy những nguyên do xa và gần đã đưa tới sự kiện mà người đó đã nói, đã làm, những điều gây đổ vỡ như vậy. Khi mình nhìn vào một con người như vậy mình thấy được nỗi bất hạnh của người đó và mình nhìn sâu hơn nữa mình thấy được rằng người đó đã có thời ấu thơ không có hạnh phúc, không có được những thứ may mắn như mình. Khi thấy được thì tự nhiên trái tim mình nhẹ nhõm, mình không trách họ nữa. Và cái đó gọi là hữu, cái hữu đưa ta đến sự chấp nhận và thương yêu.



Những phạm nhân giết người, cướp của, tạo ra những đau khổ cho người khác (là một ví dụ). Nếu mình nhìn vào họ, mình cũng thấy được những nguyên nhân xa gần như vậy với tình thương, thì mình sẽ biến cái lao tù của họ thành những nơi có thể giúp họ được, chuyển hoá được, xây dựng (lại) con người của họ chứ không phải là trừng phạt.



Còn nói về giáo lý thì trong đạo Phật có cái giáo lý Vô ngã, tức là không có cái ta riêng biệt. Thí dụ như cha con không hẳn là hai người tách biệt, thấy được rằng con là sự nối tiếp của cha và trong con có cha. Trong cha có con. Thành ra nếu người cha và người con thấy được như vậy thì không còn cái chống đối giữa hai bên nữa, tại vì mình mang cha mình đi vào tương lai và đứa con nó cũng mang mình đi vào tương lai, giận nó tức là giận chính mình. Cái đó gọi là cái tuệ giác vô ngã. Khi mà mình có tuệ giác nhiều thì tự nhiên mình có tình thương nhiều và sự chấp nhận nhiều hơn.


PV: Trong Kitô giáo, nếu một người phạm tội, thì họ vẫn có thể được tha thứ hoàn toàn và họ có thể được đến nơi mà người ta gọi là Thiên đường. Còn một người ở bên Phật giáo, khi sa vào tội lỗi, thì họ phải đọa đầy vào cái vòng luân hồi miên viễn. Vậy thì khái niệm tha thứ của hai đạo này khác nhau nhiều không?



TNH: Trong đạo Phật không có vấn đề tha tội, chỉ có vấn đề mình hiểu thì mình chấp nhận, mình xót thương cho người đó được thôi mà cái đó là con người với nhau chứ không phải ở một bậc thần linh. Trong đạo Phật không nói tới vị thần linh có thể tha tội cho mình. Khi mà mình biết rằng trong quá khứ mình đã lầm lỡ, mình đã làm những điều ác thì mình có phương pháp gọi là sám hối. Sám hối tức là nhìn thấy thật sâu, thấy những lời nói, những tư duy và hành động của mình đã gây ra khổ đau cho mình và cho người kia và quyết tâm từ nay trở đi sẽ không lặp lại những tư duy đó, những hành động đó, những lời nói đó và nhất quyết đi theo con đường mới, cái đó được gọi là làm mới, gọi là sám hối. Khi đó thì mình rất nhẹ nhàng còn nếu mà không biết phương pháp sám hối thì cái mặc cảm tội lỗi, mặc cảm hư hỏng nó cứ đi theo mình hoài.