Trang chủ Nghiên cứu "Phật giáo ở đâu…": Câu hỏi muộn màng (Bài 8)

"Phật giáo ở đâu…": Câu hỏi muộn màng (Bài 8)

117

Tiếp tục công việc giới thiệu các tư liệu về tình hình tôn giáo ở vùng núi và cao nguyên Việt Nam, nhằm mục tiêu phục vụ cho hoạt động hoằng pháp đến đồng bào dân tộc thiểu số, có thể là tài liệu tham khảo hữu ích cho tăng ni Phật tử phát nguyện đảm nhận Phật sự quan trọng và khó khăn này, chúng tôi xin trích giới thiệu dưới đây bài nghiên cứu mới nhất trong lĩnh vực này có nhan đề “Sự phát triển của đạo Tin Lành và một số vấn đề đặt ra cho việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống người Ê Đê ở Tây Nguyên hiện nay” của Thạc sĩ, nghiên cứu sinh Nguyễn Văn Thắng, Viện Khoa học Xã hội Vùng Tây Nguyên, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, đăng trên Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội 10/2013.

Phần trích dẫn là phần 2 “Sự phát triển đạo Tin Lành trong người Ê Đê ở Tây Nguyên” sẽ cho chúng ta thấy đạo Tin Lành đã nỗ lực như thế nào trong hơn 80 năm qua trong việc truyền đạo ở Tây Nguyên, với nhiều nguồn lực, nhiều phương tiện, nhiều hoạt động với nghiên cứu về ngôn ngữ, nhân chủng, sinh hoạt phát triển cộng đồng, hỗ trợ y tế, tập trung đào tạo. Qua bài viết chúng ta sẽ thấy diện mạo tôn giáo đã hình thành là rất khó để có thể thay đổi dù ở mức giới hạn.

“Sự phát triển đạo Tin Lành trong người Ê Đê ở Tây Nguyên

Sự phát triển đạo Tin Lành trong người Ê Đê ở Tây Nguyên thời gian qua có nhiều thăng trầm, do bị tác động bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng tựu chung lại có thể phân thành 3 giai đoạn chính như sau:

–    Giai đoạn từ khởi đầu đến năm 1954 với dấu mốc 3 giáo sĩ của Hội liên hiệp Cơ đốc và Truyền giáo (C.M.A) đăt chân đến Đà Nẵng năm 1911 và bắt đầu công tác truyền giảng tin mừng tới các tín đồ. Năm 1929, ông bà giáo sĩ H. A. Jackson được Hội C.M.A cử tới Đà Lạt mở cơ sở truyền giáo, phát triển giáo dân ở đây. Năm 1932 (có tài liệu viết 1933; 1934), giáo sĩ G. H. Smith được C.M.A cử lên Buôn Mê Thuột, tỉnh Đắc Lắc để truyền đạo vào vùng các tộc người thiểu số, trong đó, người Ê Đê được chú ý như là đối tượng chính để phát triển tín đồ của giáo sĩ Smith bên cạnh người Mơ Nông, Gia Rai. Đây cũng là dấu mốc quan trọng đánh dấu việc người Ê Đê chính thức tiếp nhận đạo Tin Lành.

Cuối những năm 1930, phong trào “truyền đạo thượng du” được phát động bởi mục sư Tống Thượng Tiết (người Hoa), họ đã thành lập Ban Bào Ngoại Bố đạo Thiết Đảo tại Đà Nẵng. Giai đoạn này nhiều truyền đạo trẻ đã tự nguyện lên đường truyền đạo, trong đó tộc người Ê Đê ở Đắc Lắc cũng được các truyền đạo trẻ thâm nhập và rao giảng tin mừng. Năm 1947, ông bà giáo sĩ N. R. Zienmer được cử tới tiếp tục công tác truyền giản đức tin, phát triển giáo dân. Cùng năm, trường Kinh thánh (hệ trung cấp) được thành lập để đào tạo người thiểu số tại chỗ làm mục sư, truyền đạo nhằm phát triển giáo dân, mở rộng giáo phận của đạo Tin Lành. Năm 1950, Đoàn truyền giáo Tin Lành Việt Nam (được đổi tên từ Ban Bào Ngoại Bố Đạo Thiết Đảo) với nhà truyền giáo Nguyễn Hậu Nhương được cử tới vùng Buôn Ma Thuột để tiếp tục truyền đạo, sau đó, năm 1951 tiếp tục bổ sung thêm ông Đặng Văn Sung. Giai đoạn này tuy việc truyền giáo của các truyền đạo, mục sư có tích cực, nhưng lượng tín đồ theo không nhiều, người Ê Đê còn thận trọng với tôn giáo mới, hầu hết đồng bào vẫn theo tín ngưỡng hỗn linh truyền thống của cha ông. Do vậy, kết quả chủ yếu chỉ là thành lập được trường Kinh thánh tại Buôn Mê Thuột; Tổ chức Địa hạt Thượng du cho các chi hội Tin lành ở vùng Nam Trường sơn – Tây Nguyên.

–    Giai đoạn từ 1954 đến 1975 được xem như là thời kỳ thuận lợi cho phát triển đạo Tin Lành ở Tây Nguyên, vì: vùng Tây Nguyên được đặt dưới sự quản lý của chế độ Mỹ-Ngụy; Các Chi hội Tin Lành được sự giúp đỡ tài chính trở lại từ Hội C.M.A, các mục sư, truyền đạo viên ra sức phát triển giáo dân với các cách thức khác nhau, lúc cao điểm có tới 27 giáo sĩ có mặt thường xuyên ở Tây Nguyên để truyền đạo. Năm 1959, thành lập Hội thánh Tin Lành Việt Nam, từ đây Địa hạt Thượng du là một bộ phận trực thuộc Tổng liên Hội. Năm 1956, giáo sĩ H. G. Smith thành lập Giáo phái Cơ đốc truyền giáo tách khỏi Hội C.M.A. Cuối năm 1957 Viện Ngôn Ngữ học mùa hè cũng thâm nhập và hoạt động tại miền Nam Việt Nam rồi mở rộng lên các tỉnh Tây Nguyên. Họ nghiên cứu ngôn ngữ, nhân chủng, phát triển cộng đồng, hỗ trợ về y tế… cho các tộc người thiểu số kèm theo việc truyền giáo. Năm 1969, do sự mâu thuẫn giữa các chức sắc Tin Lành, họ đã tách Địa hạt Thượng du thành: Nam Thượng hạt và Trung thượng hạt. Người Ê Đê ở Đắc Lắc nằm trong Trung thượng hạt. Ở giai đoạn này, công tác truyền đạo được tổ chức chặt chẽ và hoạt động mạnh với 2 nguồn là: 1) các giáo sĩ nước ngoài, 2) các mục sư, truyền đạo viên được đào tạo bài bản tại các trường Kinh thánh ở Buôn Ma Thuột, Đà Nẵng, Đà Lạt.

Với sức mạnh tài chính, sự hỗ trợ của chính thể cũ, đội ngũ truyền đạo đông đảo, người Ê Đê đã quen với đạo Tin Lành. Trong giai đoạn này, lượng tín đồ là người thiểu số ở Tây Nguyên có khoảng 50.000 người, 13.500 người đã được làm lễ rửa tội; 212 chi hội; 144 chức sắc tôn giáo, trong đó có 37 mục sư, 60 truyền đạo, 47 truyền đạo sinh (Nguyễn Xuân Hùng, 2010).

–    Giai đoạn phát triển đạo Tin Lành từ sau năm 1975 đến nay có thể chia thành 2 tiểu giai đoạn là: giai đoạn khó khăn của đạo Tin Lành và giai đoạn phát triển trở lại của đạo Tin Lành.

+ Ở giai đoạn 1: Sau khi Việt Nam hoàn toàn thống nhất, đạo Tin Lành đã mất đi những điều kiện thuận lợi, sự hỗ trợ, ưu đãi của chế độ cũ, đồng thời, một số chức sắc tôn giáo chạy theo nhóm phản động chống phá cách mạng của Đảng và Nhà nước ta, trong đó, mục sư Y Nguê B-đắp – Chủ nhiệm Trung Thượng hạt người Ê Đê ở Buôn Mê Thuột cũng nằm trong số này. Trong khoảng 10 năm sau 1975, trước những khó khăn về tài chính và tình hình xã hội trong nước, các chức sắc, tổ chức, thiết chế tôn giáo của đạo Tin Lành ở Tây Nguyên gần như không còn hoạt động, tín đồ chuyển về “sinh hoạt tại gia”.

+ Ở giai đoạn 2: Sau năm 1983, một số mục sư, truyền đạo trở về sau khi đã đi cải tạo tiếp tục công việc phát triển giáo dân. Ở Đắc Lắc sau năm 1975 có hơn 11.000 tín đồ các tộc người thiểu, trong đó phần lớn là người Ê Đê, vì vậy, việc phát triển đạo có nhiều thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, việc đổi mới và bổ sung thêm các hình thức truyền đạo, thu hút giáo dân cũng được tổ chức lại nhằm lôi kéo tín đồ hiệu quả hơn, cụ thể là đã thành lập các Ban chứng đạo – họ là những người có điều kiện về kinh tế, thời gian, có khả năng diễn ngôn, vận động, thuyết phục,… Đồng thời, tiếp tục đào tạo lớp mục sư, truyền đạo mới và các phong trào truyền đạo tình nguyện…, họ tiếp tục nhận được sự hỗ trợ tài chính của Hội C.M.A; tài liệu và phương tiện truyền đạo; học phương pháp truyền đạo. Đây cũng là giai đoạn chứng kiến sự truyền đạo và thu hút, giành giật tín đồ của các giáo phái, như: Hội thánh Tin Lành miền Nam Việt Nam; Phong trào Hội thánh Tư gia; Hoạt động truyền giáo liên hệ phái; Giáo phái Cơ đốc truyền giáo; Cơ đốc phục lâm; Phúc âm Ngũ tuần; Báp tít; Liên hữu cơ đốc;… Với sự phát triển mạnh mẽ của của các giáo phái và việc truyền đạo tích cực của đội ngũ chức sắc, đến năm 2009, số lượng tín đồ Tin Lành ở Tây Nguyên là 362.689 người, trong đó 324.135 tín đồ là người dân tộc thiểu số. Riêng Đắc Lắc số tín đồ là 147.672 người, trong đó 133.693 người thiểu số và phần lớn là người Ê Đê (trên 100.000 người).

Có thể nhận định rằng, trải qua nhiều bước phát triển khác nhau trong hơn một thế kỷ (1911-2013) đạo Tin Lành ở Tây Nguyên đã có những bước phát triển mạnh mẽ về số lượng tín đồ, nhất là ở các tộc người thiểu số Tây Nguyên. Tộc người Ê Đê tuy có dân số đứng thứ 2 (sau Gia Rai) nhưng số tín đồ Tin Lành lại đông nhất (trên 100.000 người) so với các tộc người thiểu số khác. Và chính điều này đã kéo theo sự mai một rõ nét trong văn hóa truyền thống của người Ê Đê ở Tây Nguyên.”

Phần trích dẫn tiếp theo dưới đây sẽ cho thấy việc hội nhập đạo Tin Lành vào đời sống văn hóa và tín ngưỡng người Ê Đê, nó phản ánh những nghiên cứu công phu của những người truyền giáo đạo Tin Lành đối với văn hóa dân tộc Ê Đê. Đặc biệt, có thể lưu ý đến thành công “hợp nhất” Chúa với vị thần tối cao của người Ê Đê.

Đây là nền tảng vững chắc cho sự phát triển đạo Tin Lành trong lòng dân tộc Ê Đê. Đạo Tin Lành chẳng những đã cắm rễ sâu trong lòng dân tộc Ê Đê và lại có những thuận lợi mới trong việc mở rộng. Trong bối cảnh tôn giáo như vậy ở Tây Nguyên, cơ hội dành cho Phật giáo có lẽ không còn là bao nhiêu. Câu hỏi “Phật giáo ở đâu…?” thực sự là một câu hỏi muộn màng, vì Phật giáo đã chậm trễ có đến 80 năm.

“Sự tiếp nhận các giá trị văn hóa người Ê Đê của đạo Tin Lành

Việc tiếp nhận giá trị văn hóa người Ê Đê của đạo Tin Lành là một trong những phương thức để dung hòa, tồn tại và phát triển đạo. Bởi, sự tiếp nhận tín ngưỡng của các tộc người thiểu số tại chỗ không chỉ làm cho việc truyền đạo thuận lợi hơn mà nó còn làm cho đạo Tin Lành trở nên gần gũi hơn với đời sống thực tại của người dân. Họ vẫn có thể thực hiện một số lễ thức truyền thống và tin Chúa bên cạnh một số quy định nghiêm ngặt của Giáo hội. Làm cho cộng đồng thấy văn hóa cổ truyền  của cha ông vẫn tồn tại, vẫn ẩn hiện trong tâm thức và được thực hành trong đời sống hiện tại, hoặc giả, làm giảm bớt hay mềm hóa sự đứt gãy văn hóa truyền thống khi chuyển đổi tâm thức từ đa thần sang độc thần. Xu thế này ngày càng phát triển do nhận được sự chia sẻ tích cực từ phía cộng đồng tín đồ. Sự tiếp nhận ấy thể hiện qua một số mặt sau:

Qua kiến trúc: Biểu hiện rõ nhất chính ở nhà thờ, nhà nguyện. Ở đây, đạo Tin Lành đã tiếp thu những đặc trưng tiêu biểu trong kiến trúc nhà dài của người Ê Đê, như: căn nhà mô phỏng con thuyền; hai mái đầu hồi thượng thách hạ thu, phần trên vút cao và hơi ngả ra ngoài như đầu con thuyền, phần dưới thu lại chống vào thân nhà; gỗ, lồ ô… xung quanh nhà được làm hơn ngả ra ngoài ở phía trên và thu lại ở phía dưới như mạn con thuyền;… để tạo nên ngôi nhà thờ, nhà nguyện phục vụ cho sinh hoạt của tín đồ, làm cho họ cảm thấy tuy theo đạo mới nhưng nơi sinh hoạt, thờ tự… vẫn gần gũi với tâm thức truyền thống của tộc người.

Trang phục và một số yếu tố trong trang phục cũng được đạo Tin Lành tiếp thu để phục vụ cho việc truyền đạo, phát triển giáo dân, như: họ khuyến khích tín đồ mặc trang phục truyền thống khi đi lễ hoặc gần như bắt buộc với các lễ trong; các chi tiết hình họa đặc trưng trên vải dệt của người Ê Đê được tiếp nhận và trình bày có hệ thống trong nhà thờ, nhà nguyện, nhà sinh hoạt điểm nhóm như hình hoa tám cánh, hình quả trám, hình mặt trời, hình chữ chi… và bên cạnh đó luôn đi kèm với hình thập tự giá ở nơi trang trọng nhất; những mảnh thổ cẩm được bày nhiều trong nhà thờ, nhà nguyện, họ có thể dùng thay khăn trải bàn, bọc thánh kinh hoặc cuộn lại kê Kinh thánh khi rao giảng tin mừng,… Tuy là những chi tiết nhỏ nhưng với sự cẩn trọng, tỉ mỉ ở từng chi tiết, các mục sư, truyền đạo đã cho thấy họ rất tinh tường trong việc nuôi dưỡng giá trị văn hóa truyền thống, linh hoạt trong sử dụng để lôi cuốn tín đồ, tạo cảm giác thân thuộc giữa tín ngưỡng cũ và tôn giáo mới.

Sự tiếp nhận mang tính biểu tượng đặc biệt chính là Tin Lành đã “hợp nhất” Chúa với vị thần tối cao của người Ê Đê – A ê Die. Người Ê Đê coi A ê Die là vị thần trị vì cao nhất, trên cả các Yang (thần), là vị thần sáng tạo ra muôn loài và vì thế sự tôn kính nhất mực luôn được cộng đồng dành cho A ê Die. Khi đạo Tin Lành vào Việt Nam (1911) và lúc các giáo sĩ truyền đạo tới Buôn Mê Thuột (1932) họ đã nhanh chóng nhận ra điều này và gần như ngay lập tức, họ gắn Chúa với Aê Die, nhằm phục vụ công tác truyền đạo, thu hút tín đồ. Và thành công lớn nhất của việc hợp nhất Chúa và Aê Die là: tới nay, người Ê Đê luôn coi Chúa chính là Aê Die; Aê Die là Đức Chúa Trời – một niềm tin gần như tuyệt đối ở tất cả giáo dân khi chúng tôi nghiên cứu. Còn rất ít tín đồ có thể phân tách giữa Chúa và vị thần truyền thống tối cao của họ. Một biểu tượng thần linh, đức tin cao nhất của người Ê Đê đã được đạo Tin Lành tiếp nhận và “chuyển hóa” thành công trong đời sống tinh thần của họ.

Cồng chiêng Tây Nguyên nói chung và của người Ê Đê nói riêng là giá trị văn hóa tiêu biểu cũng được đạo Tin Lành tiếp nhận. Cũng như việc tiếp nhận các lễ thức, cồng chiêng được tiếp nhận và diễn tấu trong nhà thờ, nhà nguyện trong một, hai thập kỷ trở lại đây ở những dịp lễ trọng, và họ coi đó là một phần trong đời sống văn hóa Tin Lành của giáo dân theo đạo. Nhiều giáo dân vẫn “say sưa” với tiếng cồng, tiếng chiêng của dân tộc bên cạnh việc thờ phượng chúa. Cởi mở, tiếp nhận và hòa hợp với văn hóa cổ truyền chính là một đặc điểm của đạo Tin Lành, miễn sao việc phát triển tín đồ, mở rộng giáo phận được nhân lên thì việc sử dụng, thực hành một số giá trị văn hóa truyền thống vẫn được đạo Tin Lành chấp nhận.

Phương thức rao giảng tin mừng được các mục sư, truyền đạo tận dụng triệt để từ việc chắt lọc những giá trị văn hóa của người Ê Đê, như: sử dụng ngôn ngữ của đối tượng tiếp cận, lối nói vần; xây dựng các mạng lưới liên kết nhỏ, tranh thủ vai trò của dòng họ và những người có uy tín ở trong dân tộc như già làng, trưởng buôn, trưởng dòng họ… để phát triển giáo dân. Bên cạnh đó là mô hình nhóm tích cực như: nhóm ấu nhi, phụ nữ, thanh niên, trung niên, phụ lão… được khai thác triệt để với mong muốn duy nhất là tạo được nhiều hơn những tuyên truyền viên về đạo và mời được người theo đạo. Thời kỳ trước đây, họ còn dùng đội ngũ “chứng đạo viên” kết hợp với phương thức “vết dầu loang” để phát triển tín đồ, thực chất các ban, nhóm hiện nay là bước phát triển tiếp sau có hệ thống và quy củ hơn của “ban chứng đạo” trong quá khứ.

Không gian, thời gian và địa điểm sinh hoạt tôn giáo của người Ê Đê cũng như các tộc người khác theo Tin Lành ở Tây Nguyên mang nhiều nét giá trị văn hóa truyền thống. Sự uyển chuyển, linh hoạt, khoáng đạt chính là yếu tố phù hợp với tâm thức của cộng đồng Ê Đê. Với họ, sự gò ép, bó buộc theo các khuôn phép sẽ biến thành trở lực của các hoạt động. Nắm rõ đặc điểm này, đạo Tin Lành “chấp nhận” sự thoải mái của tín đồ, nơi nào có thập tự tức là mọi người có thể cầu nguyện; điểm sinh hoạt có thể ở nhà thờ, nhà nguyện, nhà của tín đồ, trên rẫy hoặc bất kỳ địa điểm nào thích hợp với điều kiện của đại bộ phận cộng đồng. Và dĩ nhiên, Chúa cũng có mặt ở đó để chứng giám cho họ. Đây là đặc điểm phù hợp với tâm thức và thói quen sinh hoạt của người Ê Đê, vì vậy, họ dễ dàng chấp nhận Chúa và đến gần với Chúa hơn.”