Sáng ngày mùng 1 tết, khi sương đêm còn đọng trên cành cây ngọn cỏ và cái se lạnh của núi rừng chưa tan thì Chư Tăng Ni, Phật tử đã tập trung lên cốc của TT.Thích Chân Quang để chúc tết. ĐĐ.Thích Tánh Khoan đại diện cho Tăng chúng kính lên TT. Thích Chân Quang lời chúc mừng năm mới cùng với lời tự sự về tình Thầy trò thật cảm động.
Trước những lời bộc bạch chân thành của đệ tử, TT.Thích Chân Quang rất cảm động, vì đệ tử mình đã nói lên được những hoài bảo ấp ủ cho một lý tưởng tu hành và phụng sự Phật pháp lâu nay của Thượng tọa.
Phải siêng tạo công đức trong đời sống bằng cách yêu thương, chăm sóc, giáo dục mọi người, v.v… Vì có công đức ta mới thành tựu được tâm linh, tài năng … có công đức ta mới có thể nhiếp hóa được chúng sinh và làm nhiều điều lợi ích cho Phật pháp hơn nữa.
Mà công đức là do cái tâm quán xuyến của mình đối với công việc lo cho mọi người tạo thành. Cho nên đừng ai an phận, đừng ai chấp ý mình mà lúc nào cũng phải sống bằng cái tâm của Phật, có hiểu Phật như thế nào thì ta mới sống y như vậy.
Lúc đó cái tâm mình đặt hết nơi cuộc đời mọi người, lấy cuộc đời, nổi khổ, niềm vui của mọi người mà trở thành cuộc sống của mình. Và điều sau cùng Thượng tọa dặn dò đệ tử ngoài việc tin tấn tấn tu hành, huynh đệ thương yêu nhau còn phải biết giữ gìn tình đoàn kết nội bộ chặt chẽ thì không ai thao túng, tác động, phá hoại chúng ta được.
Sau đó, Chư Tăng Ni và các Phật tử lễ Thầy 3 lễ rồi tập trung vào chánh điện tụng thời Kinh đầu năm.
Ngày đầu xuân năm mới tại Thiền Tôn Phật Quang vừa thanh tịnh, yên bình mà cũng vừa tấp nập cảnh từng đoàn người đến chùa du xuân lễ Phật. Phải chăng! đi lễ chùa đầu năm không chỉ để ước nguyện, mà còn là khoảnh khắc thiêng liêng để con người hòa mình vào chốn tâm linh, tìm một chỗ nương tựa tinh thần vững chắc, trong cuộc sống hiện tại của người Phật tử vốn nhiều thăng trầm. Với ý nghĩa đó, món quà tinh thần đầu xuân TT.Thích Chân Quang gửi đến các Phật tử là bài Pháp thoại có tựa đề Ý NGHĨA CỦA TỰ DO.
Mở đầu đề tài, Thượng tọa định nghĩa “Tự do” nghĩa là ta được làm những gì mình muốn. Tiếp theo Thượng tọa phân tích cái tâm lý thế nào là hạnh phúc, thế nào là đau khổ liên quan đến ý nghĩa của tự do bằng những ví dụ cụ thể, có thực trong cuộc sống, nên mọi người cảm nhận được ngay và như bị cuốn hút vào không gian hỷ lạc tràn đầy Pháp vị. Cả hội chúng yên ắng, hướng về Thượng tọa Giảng sư lắng nghe từng lời với trọn lòng tôn kính.
Thượng tọa cho rằng “Cả một thời gian dài cho đến bây giờ, người ta vẫn ước mơ tự do. Cứ nghĩ mình muốn làm được gì thì làm, đó gọi là hạnh phúc”. Sự thật không đơn giản như vậy, vì chúng ta không phải sống một mình mà sống với cộng đồng loài người với nhau. Nếu chúng ta muốn làm gì cứ làm thì chắc chắn sẽ đụng đến quyền lợi của người khác.
Để hạn chế tự do của con người, không cho con người muốn làm gì thì làm và để bảo đảm cuộc sống này không ai đụng chạm đến quyền lợi của ai, cho nên luật pháp xuất hiện cấm ta như thế này… như thế khác. Thượng tọa phân tích, dẫn chứng cho thấy nếu để tự do ai muốn làm gì cứ làm thì cái định nghĩa ban đầu mà ta tưởng rằng tự do là hạnh phúc là hoàn toàn sai lầm. Tự do không là một hạnh phúc mà tự do rất có thể là một tội lỗi vì ta xâm phạm đến lợi ích của người khác. Luật pháp xuất hiện để hạn chế tự do của con người, để điều chỉnh, uốn nắn hành vi của con người, buộc mọi người sống như thế này, làm như thế kia, sao cho phù hợp với cộng đồng, có lợi cho mọi người và không gây tổn hại với bất kỳ ai. Đồng thời Thượng tọa cũng chứng minh rằng trong cuộc sống này không phải ta được quyền làm bất cứ mọi điều mình muốn, vì lợi ích của chính ta và vì lợi ích của cộng đồng.
Vấn đề ta tôn vinh tự do, cho rằng tự do chính là hạnh phúc, thực sự là một phạm trù sai lầm hoàn toàn. Chỉ những lúc mà con người bị nô lệ, bị áp bức một cách vô lý thì chúng ta cần tự do hơn, được làm những điều mình muốn trong đạo đức – trong lợi ích của cộng đồng. Đó là tự do chân chính, tức là việc làm của ta không gây tổn hại cho mình và người khác.
Tuy nhiên, con người ta vẫn bị thôi thúc bởi cái bản ngã bên trong, thích làm những điều mình muốn. Điều này thường bộc lộ ở lứa tuổi thanh thiếu niên bắt đầu trưởng thành. Khi mà lớp trẻ cơ thề vừa phát triển, sự hiếu động mạnh hơn, đã nghĩ đến sự độc lập bản thân, muốn thoát khỏi sự kiểm soát của cha mẹ, mong có nhiều khả năng tự lựa chọn, dễ bị bạn bè lôi cuốn làm những chuyện động trời để thỏa mãn cảm giác phấn khích. Đó là bản ngã thôi thúc khiến tuổi teen muốn làm những điều mình thích và gây đau khổ cho cha mẹ, nên giai đoạn tự do này chính là tội lỗi.
Thượng tọa cũng điểm qua vấn đề luật pháp vào thời xưa và thời nay do ai tạo ra? Đồng thời nhận xét rằng “Chính những nước văn minh nhất lại là những nước nhiều luật pháp nhất”. Khi luật pháp nhiều thì tự do ít, mà luật ít thì tự do nhiều. Cho nên có những quốc gia họ xưng là mình rất văn minh nhưng sự thật quốc gia đó luật đầy và hễ thêm một điều luật nào thì người dân càng mất tự do. Con người sống trong xã hội đó không nhúc nhít được, làm cái gì cũng đụng luật, cũng phạm luật.
Chúng ta thấy một quốc gia mà gọi là tự do dân chủ xin vui lòng đừng mơ, bước vô đó là không tự do vì “Luật” nhiều quá. Việt Nam mình coi vậy chứ nhiều tự do hơn các nước khác vì “Luật” Việt Nam còn ít. Cầu mong nhà nước ta xây dựng đất nước văn minh nhưng không nhiều luật lắm. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng “Luật” điều chỉnh hành vi con người sống để hòa hợp? Chúng tôi xét thấy cứ dựa vào luật mà điều chỉnh hành vi thì con người sẽ bi trói buộc mặc dù mang danh nghĩa luật pháp là hợp pháp, nhưng kỳ thực đang siết người dân từ từ. Còn để cho người dân họ biết điều gì sai; điều gì đúng, đó mới chính là hạnh phúc. Để làm sáng tỏ quan điểm này, Thượng tọa đưa ra nhiều ví dụ cho thấy con người ta sống không phải vì luật bắt buộc mà vì đạo đức nên hạnh phúc hơn. Ví dụ tới giờ ăn cơm, ta thấy chưa đói nên không muốn ăn, nhưng nghĩ rằng nếu không đến ăn cơm ba mẹ mình lo, thôi thì cứ ăn. Phải chăng! cái quyết định mình phải ăn cơm là tự do và đạo đức và như vậy là hạnh phúc. Ở đây không có đạo luật mà nó là sự suy nghĩ đúng của con người, điều tự giác đó chính là tự do… là hạnh phúc.
Nhiều người lầm tưởng cho rằng “Tự do dân chủ” là cứu cánh; là lý tưởng; là mục tiêu cuối cùng? Xin thưa “Tự do dân chủ” chỉ là phương tiện đưa đến hạnh phúc mà thôi. Chính “Hạnh phúc” mới là cứu cánh, là lý tưởng mục đích cuối cùng. Tại sao người ta tin rằng tự do dân chủ là con đường đưa đến hạnh phúc, thật ra cũng chỉ là một niềm tin. Giống như ngày xưa người ta tin rằng quân chủ mới là hạnh phúc, tức là đất nước có ông Vua hiền cai trị và cả toàn dân một lòng hướng về ông. Đó là đất nước bình yên hạnh phúc, người ta tin như vậy và xây đắp cho cái chế độ đó. Tiếp theo, Thượng tọa chứng minh cho thấy đời nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê … người dân sống rất hạnh phúc vì có một ông Vua hiền, đạo đức, biết yêu thương dân. Vua Lê Thánh Tông đưa ra bộ luật Hồng Đức góp phần làm xã hội ổn định nhưng bộ luật đó không quá khắt khe; không ràng buộc và không quá nhiều, để con người biết điều chỉnh mình, không gây tổn hại cho cộng đồng và người dân hài lòng hạnh phúc mặc dù so với thời nay ta vẫn nghèo. Rõ ràng là quân chủ hay dân chủ cũng là một con đường đưa đến hạnh phúc.
Lại nữa, Thượng tọa cũng chứng minh để thấy rằng có những giai đoạn mà chế độ quân chủ hay dân chủ không đem lại hạnh phúc cho người dân là vì sao? Như vậy “Hạnh phúc” thật sự nó không lệ thuộc vào chế độ nào mà lệ thuộc vào người lãnh đạo và cái phước của toàn dân. Trong một đất nước, khi nào người dân họ đạo đức, làm nhiều điều phước rồi và khi nào người lãnh đạo (hoặc Vua hoặc ông Thủ tướng) là người tài đức thì ta bảo đảm một điều đất nước đó hạnh phúc. Ngược lại, nếu người lãnh đạo không tài không đức và người dân cũng không biết làm phước thì ta yên chí một điều đất nước đó sẽ suy tàn và đau khổ.
Khi có yếu tố “Phước đức” chi phối vào đời sống con người thì bắt đầu nó thuộc về Tâm linh – Luật Nhân Quả. Do đó, khi xét về chính trị của một quốc gia, ta đừng bao giờ quên vấn đề tâm linh. Chính cái nhân quả nghiệp báo nó làm cho quốc gia trở thành hạnh phúc hay không hạnh phúc.
Nhân loại từ xưa đến nay, không cần biết là đi qua chế độ nào nhưng mà luôn luôn giao động và đổi qua hai dạng quyền lực: một là quyền lực tập trung ít lại vào một hoặc hai người. Hai là trải rộng ra số đông. Tức là khi thì tập quyền khi thì đại nghị, dù dân chủ hay quân chủ đều làm như thế. ví dụ thời quân chủ Vua nắm hết quyền lực nhưng mà sự thật không phải vậy. Có khi ông Vua kém uy lực, lập tức quyền hành nó trải ra, việc gì cũng bàn cả triều đình. Tuy là Vua nhưng sự thật đã trở thành chế độ đại nghị cộng hòa lấy ý kiến chung. Còn những khi ông Vua đủ uy lực thì quyền hành tập trung vào ông hết, đó gọi là lúc tập quyền. Chúng ta thấy, cũng một chế độ quân chủ nhưng khi thì tập quyền khi thì đại nghị. Tương tự, thời đại dân chủ cũng vậy … Và tại sao là người ta có uy lực hay không uy lực? Xin thưa đó là nghiệp phước đức. Để có thể giải thích hết mọi hiện tượng trên đời này, chúng ta phải dùng đến thuyết Nhân Quả Nghiệp Báo chứ không dùng lý luận triết học đơn sơ của loài người mà lý giải được.
Thượng tọa quan niệm một đất nước có nhiều Đảng là vô ích. Nhiều tranh cãi sẽ làm hao tốn nguồn năng lực của quốc gia. Chỉ một Đảng nhưng cần người đối lập phản biện. Giống như bây giờ nhà nước ta đưa ra phong trào phản biện, ai cần góp ý điều gì cứ mạnh dạn nói để nhà nước biết và nhìn lại cái quyết định của mình. Cái phản biệt đó là cần thiết. Còn khi có sự đối lập của nhiều Đảng phái trong một quốc gia thì quốc gia đó dễ bị suy yếu, mất đoàn kết do nội bộ đánh nhau và cạnh tranh với nhau.
Kế đến, Thượng tọa trình bày quan điểm người có phước tự nhiên được tự do hơn người kém phước; đồng thời phân tích phước và tự do lệ thuộc với nhau như thế nào rồi đúc kết thành một quan điểm sống “Ta đừng đòi hỏi tự do sớm mà hãy đòi hỏi làm sao mình làm phước thật nhiều”. Nên nhớ phước càng lớn thì tự do càng nhiều và người có đạo đức thì càng xứng đáng tự do. Còn người ít đạo đức thì cần hạn chế tự do. Đây là một chân lý.Ai hiểu: Tôi sinh ra, tôi phải được tự do, phải có nhân quyền đầy đủ là người đó hiểu lầm! Tự do là cái có điều kiện của phước và đạo đức, nó là phần thưởng ở phía sau. Nhân đây, Thượng tọa nói lên một điều tiên tri cho thế giới “Một ngày nào đó sẽ có cuộc biểu tình nổ ra trên thế giới này yêu cầu bỏ bớt luật pháp”. Bởi vì sẽ có một ngày con người ta ngộ ra rằng “Chính luật pháp càng lúc càng nhiều, con người ta mất hết tự do và sống như trong tù”. Nếu có người hỏi rằng “Điều luật đưa ra đã bàn rất kỷ, làm sao bỏ được”. Suy nghĩ đó là tự trói buộc mình.
Ở Việt Nam ta, có một thời gian dự tính dùng nghị quyết của Đảng thay thế cho luật, tức là Đảng đưa ra nghị quyết mọi người học tập và làm theo chứ không theo luật, nhưng không thành công lắm bởi vì con người ta không tự giác. Cuối cùng nhà nước chuyển qua thành nhà nước pháp quyền, cứ lấy luật mà cai trị và điều đó người ta tưởng là văn minh. Không! đó là một bước lùi chứ không phải tiến vì nghị quyết đưa ra có tính kêu gọi, giáo dục thôi, nó không có tính cưỡng chế bắt buộc. Vì vậy khi nghị quyết đưa ra mà nếu dân không làm thì nhà nước cũng chịu thua. Cuối cùng cứ sống theo luật và theo kinh tế thị thường sòng phẳng mua bán, không có đạo đức chẳng còn tình nghĩa. Ngang đây Thượng tọa so sánh một xã hội sống bằng cái sòng phẳng mua bán để gọi là kinh tế thị trường với một xã hội sống bằng tình nghĩa đạo đức lý tưởng thì rõ ràng xã hội sống bằng lý tưởng nghĩa tình tiến bộ hơn. Cho nên cái gọi là kinh tế thị trường không hay ho gì.
Trong đời sống này, mục đích ta sống là đi tìm hạnh phúc, mà hạnh phúc tức là hết đau khổ. Hết đau khổ phật gọi là giải thoát. Do đó chữ giải thoát của Phật chính là sự hạnh phúc nhưng mà hạnh phúc đi đến bằng con đường phước và đạo đức. Khi ta có phước và đạo đức thì có tự do, mà tự do là giải thoát nên cái tự do trong tâm linh nó khác với tự do trong chính trị.
Tiếp theo, Thượng tọa định nghĩa chữ “Tự do” hiểu theo góc độ xã hội và góc độ tâm linh. Đứng ở góc độ xã hội “Tự do” là muốn làm gì thì làm. Kiểu tự do này hoàn toàn nguy hiểm vì dễ đụng đến quyền lợi của người khác. Còn trong đạo Phật “Tự do” là giải thoát, là không muốn một điều sai lầm, vì ta không còn bản ngã. Do đó chúng ta phải tu đến vô ngã thì mới đạt mức độ không còn muốn một điều sai lầm nữa, đó là hạnh phúc tuyệt đối. Mà để kiểm soát cái muốn của mình không bao giờ muốn bậy bạ thì chúng ta phải tu đến cả nghìn kiếp. Điều đó cho thấy ý nghĩa tự do trong đạo Phật thật cao siêu. Vì vậy chúng ta phải tiếp tục tu hành tinh tấn từng ngày.
Tóm lại, “Hạnh phúc” là không phải muốn làm gì thì làm. Hạnh phúc chính là không có ý muốn sai. Người trí tuệ là người kiểm soát được cái ý muốn của mình. Ngược lại, người ngu si thường làm theo ý mình muốn. Cha mẹ đừng bao giờ chìu theo điều con trẻ muốn mà phải dạy con biết tự đánh giá cái muốn của chúng. Khi con đòi cái gì phải nói con tự đánh giá cái muốn đó đúng hay sai để chúng có trí tuệ. Sau này khi có trí tuệ thì con mình biết chọn lựa. Khi chúng tự biết chọn lựa điều đúng thì đời nó hạnh phúc không cần chúng ta nữa. Cũng vậy, quốc gia không cần chìu hết cái muốn của mọi người nhưng lãnh đạo quốc gia phải giúp dân kiểm soát cái muốn của họ. Khi người dân biết kiểm soát cái muốn, lúc đó dân trí đã lên cao và đó là đất nước hạnh phúc. Sau cùng Thượng tọa tặng bài thơ nói về ý nghĩa hạnh phúc:
Hạnh phúc mênh mông chính là khi
Ta hiểu mình đang muốn gì
Những gì sai trái nên từ bỏ
Ung dung ta biết chọn đường đi.
Hạnh phúc bao la chỉ vì đâu
Bản ngã làm ta lắm khổ sầu
Hướng về vô ngã tìm ánh sáng
Có đạo từ bi rất nhiệm mầu.
Có những mùa xuân ai biết chăng
Chẳng phải vì hoa ngập nắng vàng
Mà bởi lòng người nhiều yêu mến
Tặng nhau đầm ấm đón xuân sang.
Hoạt động vui xuân ngày mùng 1 còn có chương trình thuyết giảng giáo lý do Chư Tăng Ni Thiền Tôn Phật Quang đảm trách vào lúc 19h00 cùng ngày với các chủ đề như Tu Với Ai? Hạnh Phúc Là Gì? Ý Nghĩa Con Rồng. Năm nay quý thầy, quý sư cô chia sẽ đạo lý gây nhiều ngạc nhiên cho người nghe vì phong cách nói chuyện vững chãi, lưu loát, mang nhiều ý đạo, dễ hiểu. Trong khung cảnh tràn ngập tình người ý đạo đã tạo nên không khí ấm áp an vui. Đồng thời cái khoảnh khắc an bình đó như đan xen và hòa quyện trong từng nhịp sống của những người con Phật trong ngày đầu năm nơi cửa chùa. Quả thật! Cõi Phật – cõi xuân là đây.









































