Trang chủ Đời sống Ung thư đã dạy tôi điều gì

Ung thư đã dạy tôi điều gì

Đó là Lễ Tạ Ơn trong thời gian cách ly năm 2020. Giống như rất nhiều người thuộc thế hệ thiên niên kỷ khác trong năm đó, Vy – người sẽ trở thành vợ tôi – và tôi buộc phải là người lớn trong bếp lần đầu tiên. Khi tôi đang cúi đầu loay hoay với món khoai lang phủ đường và con gà tây đã buộc kỹ, Vy bỗng nhận ra có một cục u sau gáy tôi.

“Chắc là vết cắn của côn trùng thôi.” Tôi gạt tay cô ấy ra.

Vy, khi đó là bác sĩ nội trú năm đầu trong chuyên ngành cấp cứu, chỉ bình thản nói: “Đó không phải là vết cắn côn trùng.”

Điều đầu tiên xảy ra khi ung thư tái phát là những cuộc gọi. Cuộc gọi này dẫn đến cuộc gọi khác. Một chuỗi khủng khiếp những cuộc điện thoại mang tin dữ đến khắp mọi ngóc ngách của thế giới tôi: Bệnh bạch cầu đã quay lại. Nó đã vào dịch tủy sống và não tôi. Tôi cần được ghép tủy.

Tôi lớn lên tại Chùa Phật giáo Quận Cam, một ngôi chùa Jodo Shinshu được xây dựng sau thời kỳ người Mỹ gốc Nhật bị giam giữ hàng loạt trong Thế chiến II. Ông bà chúng tôi đã tạo dựng nơi đây thành tổ ấm qua nhiều thế hệ, truyền lại những giáo lý sống động của Phật, Pháp và Tăng.

“Ung thư đã dạy tôi về cái tôi và bản ngã, về vô thường và chánh niệm, về khổ đau và lòng từ bi. Đó là chánh pháp của tôi.”

Tăng đoàn là tôi, là gia đình tôi, là những người bạn thân nhất, là các vị lãnh đạo cộng đồng – chính là những người đã nhận được loạt cuộc gọi ấy khi tôi nằm trên giường bệnh, bắt đầu hóa trị. Là Phật tử, chúng tôi được dạy phải buông bỏ cái tôi. Là một mắt xích trong sợi dây vàng, một phần trong tăng đoàn, tôi chưa bao giờ cảm thấy mình là ai ngoài việc là cháu trai của bà Kinuko hoặc là cậu bé cao cao chơi bóng rổ. Trong bệnh viện, ngày này qua ngày khác, túi thuốc này đến túi thuốc khác, tôi nghĩ về cuộc đời mình – cái tôi trong tôi trỗi dậy, tuyệt vọng muốn được lắng nghe. Tôi đã sống có ý nghĩa chưa? Nếu không có ca ghép tủy thành công, một bác sĩ nói, tôi có thể chỉ còn vài tháng. Tôi đã làm được gì?

Một phương pháp điều trị vừa khiến việc cách ly dễ chịu hơn, vừa làm nó tồi tệ hơn nhiều: tiêm hóa chất vào tủy sống. Thủ thuật này được giải thích giống như gây tê ngoài màng cứng, chỉ khác là thay vì thuốc giảm đau, nó là một liều cao methotrexate nhỏ giọt. Tôi chưa bao giờ nhìn cây kim, nhưng nó để lại một cái bóng trên sàn phòng mổ – một điềm xấu. Những cơn đau đầu sau đó khiến các ngày lẫn vào nhau, và tôi mê sảng đến mức hoang tưởng. Dù dành phần lớn thời gian để ngủ, tôi vẫn cố nhìn điện thoại vài lần mỗi ngày. Có những ngày ảo giác nặng nề hơn. Có phải một đám đông đang đột nhập vào Tòa nhà Quốc hội Mỹ? Thôi, ngủ tiếp vậy.

Mỗi ngày, tôi nhận được một vài người theo dõi mới trên Instagram. Phần lớn là người Mỹ gốc Nhật, và tôi không nghĩ gì nhiều. Nếu có, có lẽ tôi đã nhận ra rằng ngoài thế giới kia – vượt ra khỏi phòng cách ly áp suất âm và bộ não bị ảnh hưởng bởi hóa chất của tôi – các ngôi chùa Phật giáo từ California đến Washington đang tổ chức các đợt hiến tủy. Bạn thân nhất của tôi nhắn: “Hôm nay lại có một buổi lấy mẫu tốt!” – “Lại nữa à?” Tôi lục lại các tin nhắn chưa đọc. Có ảnh của những người tôi quen, chỉ biết sơ sơ, thậm chí chưa từng gặp – tất cả đều đang ngậm tăm bông trong miệng, cạnh một tấm bảng ghi: “Cứu Paul.”

Việc có nguồn gen chung giúp tăng khả năng thành công của việc ghép. Tôi gọi cho mẹ và bà xác nhận điều đó – có hàng ngàn người Mỹ gốc Nhật đang cố gắng cứu mạng tôi. Tôi thậm chí còn nhận được cuộc gọi từ một ngân hàng máu ở Israel. Làm sao họ biết bên nội tôi là người Do Thái Ashkenazi thì tôi không biết. Tôi lớn lên nghĩ rằng tăng đoàn là tất cả chúng ta cùng nhau. Nhưng trong bệnh viện, đang chiến đấu để sống còn, tôi thấy tăng đoàn của mình chiến đấu vì tôi.

Chính em tôi – Laurie – cuối cùng đã trở thành người hiến tặng. Dù các đợt vận động không tìm được người phù hợp, sau này tôi vẫn nói với từng người đã lấy mẫu rằng họ có thể sẽ cứu sống ai đó trong tương lai – rất có thể là một người trong cộng đồng của chúng ta.

Khi các chiến dịch kết thúc, tôi bước vào giai đoạn điều trị tiếp theo. Xạ trị và ghép tủy diễn ra khốc liệt, gần như thời trung cổ. Tôi phải ở lại bệnh viện thêm một tháng để xem cơ thể mình có chấp nhận hệ miễn dịch mới không. Trong lần tái phát thứ hai này, các bác sĩ áp dụng liều điều trị mạnh nhất mà cơ thể tôi có thể chịu đựng. Trong khi đó, tâm trí tôi cũng cần được chữa trị.

Thế là tôi bắt đầu viết. Viết để thoát khỏi thực tại nhưng cũng để cảm thấy bình thường và hữu ích – có thể là hữu ích với tăng đoàn – bằng cách ghi lại những câu chuyện từ cộng đồng đã nuôi dưỡng tôi.

Tôi viết kịch bản cho No No Girl, một câu chuyện hiện đại về những tác động dai dẳng của việc giam giữ người Mỹ gốc Nhật và một gia đình buộc phải đoàn tụ để hàn gắn quá khứ. Tôi hoàn thành kịch bản và quay bộ phim ngay trong năm tôi ghép tủy. Tôi quyết tâm thay đổi câu chuyện.

Tám tháng sau khi xuất viện, lúc đó vẫn chưa đi lại được, tôi đã đứng trên phim trường với một dàn diễn viên toàn người Mỹ gốc Nhật, trong đó có cả một diễn viên từng đoạt giải Oscar. Tôi đã trải qua quá trình “thiến hóa học”, một vũ điệu tử thần giữa khả năng chịu đựng của cơ thể và sự trấn áp của ung thư. Tôi đã vượt qua tất cả. Và… ACTION! Tôi là tất cả các nhân vật. Tôi là từng lời thoại. Tôi là từng khoảnh khắc quý giá, và sau khi quay xong, tôi là từng đoạn cắt, từng bước chân, từng bản nhạc. Tôi cầu hôn Vy. Có lẽ chính cái tôi đã khiến tôi cảm thấy mình đã làm điều gì đó có ý nghĩa. Rằng giờ đây, tôi xứng đáng được sống.

Sống không cái tôi thật khó, nhất là khi việc còn sống đã là một hành động chống lại cái chết. Thầy tôi ở chùa nói về vô số kiếp sống, những đại dương sinh tử và rằng không có gì là vĩnh viễn, rằng cuộc sống là khổ đau, nhưng tôi vẫn ở đây…

Chúng tôi công chiếu No No Girl tại Bảo tàng Quốc gia Người Mỹ gốc Nhật ở khu Little Tokyo, Los Angeles. Đó là vào tháng 8 năm 2022, và suốt tám tháng sau đó, chúng tôi đi khắp đất nước chiếu phim, kể cả tại ngôi chùa nơi tôi lớn lên.

Trong tám tháng ấy, tôi dẫn đầu một hành trình chiến thắng đầy hưng phấn, đưa tôi đến với các cộng đồng người Mỹ gốc Nhật trên khắp nước Mỹ. Ở mỗi buổi giao lưu sau phim, mọi người giơ tay chia sẻ câu chuyện gia đình và những tổn thương xuyên thế hệ gắn kết chúng tôi. Ở San Francisco, tôi gặp một người phụ nữ kể về thời bị giam giữ tại trại Tule Lake. Chúng tôi thậm chí còn trở thành bạn thư tín. Muốn biết làm sao để đóng phim, bà viết: “Tôi tám mươi chín tuổi, tóc bạc rồi, nếu cần ai đó già thì nhắn tôi nhé.”

Trong suốt giai đoạn ăn mừng ấy, tôi bị ám ảnh bởi việc sống sót; sự bảo toàn bản thân là sự bảo toàn cái tôi. Tôi đã bò từ đáy thung lũng đau đớn lên đỉnh núi, và tự tuyên bố mình bất bại. Và đó là cách ung thư khiến bạn phải cúi đầu. Hai tuần sau khi cưới Vy, tôi lại thấy các cục u.

Ở lần chẩn đoán thứ ba, tôi lại viết – nhưng chậm rãi. Tôi không còn cần đánh bại kẻ thù nữa. Một năm nữa trôi qua và công nghệ mới lại đưa tôi vào một lần lui bệnh nữa. Đó là nơi tôi đang ở hiện tại – một lần nữa đang hồi phục. Đã gần mười năm từ lần chẩn đoán đầu tiên, và dù tôi đã “chiến thắng” ung thư vài lần, nó chưa bao giờ thật sự biến mất – chỉ là đang ẩn náu đâu đó trong cơ thể, rất nhỏ. Điều khác biệt bây giờ là tôi hiểu phần đó của mình hơn. Tôi cố lắng nghe những bài học nó mang lại.

Ung thư đã dạy tôi về cái tôi và bản ngã, về vô thường và chánh niệm, về khổ đau và lòng từ bi. Đó là chánh pháp của tôi. Là vị thầy âm thầm, giết người, nhưng kiên nhẫn. Cho đến hôm nay, tôi vẫn soi lại bản ngã, tự hỏi liệu mình đã làm đủ chưa. Tôi có sống một cuộc đời ý nghĩa không? Nhưng thay vì tự trách móc mình vì một suy nghĩ cũ kỹ mà lẽ ra tôi phải vượt qua, tôi nghĩ đến những hàng người từng cố cứu tôi bằng thân thể của họ, đến những ngày chơi bóng rổ và kết bạn ở chùa khi còn nhỏ. Tôi nghĩ đến việc mình là hậu duệ của những người đã sống sót, những người sáng lập nên một cộng đồng đẹp đẽ và lâu bền.

Tôi luôn có một cuộc đời ý nghĩa, và tôi may mắn khi có một người thầy kiên nhẫn đến vậy.

Paul Daisuke Goodman