Trang chủ Văn học Ánh mắt Thế Tôn

Ánh mắt Thế Tôn

88

Ai bảo anh là thi nhân, 


 cho đời em đau khổ 


Ai bảo em ngồi bên cửa sổ, 


cho vướng nợ thi nhân” 


Cửa sổ của căn nhà là như vậy, còn cửa sổ của tâm hồn thì sao? Xưa nay biết bao ngôn từ hoa mỹ hay ngữ khí e dè trước từng ánh mắt của người đời: “Người khôn con mắt đen sì,


 Người dại con mắt nửa chì nửa thau”  


Những người ti hí mắt lươn,


 Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người” 


Những ai con mắt lá răm, Chân mày lá liễu


đáng trăm quan tiền”… 


Cụ thể nhất là theo phong tục Việt Nam , ông cha ta thường nhờ người mai mối dẫn con đi “coi mắt” vợ chứ không bao giờ đi coi mũi, tai, hay miệng vợ. Vì sao? Vì đôi mắt kia hẳn đã lưu lộ ít nhiều nét thẩm mỹ hay ẩn tàng những tư chất kế thừa của một dòng tộc. Biện pháp tuyển chọn dâu con như thế tuy có vẻ phiến diện nhưng không kém phần thực dụng và hiệu quả.


Thế Tôn là Bậc Đạo Sư của nhân thế, là Đấng Cha Lành của muôn loài. Nơi Ngài không hề thấy những gì là ánh mắt bồ câu, khuôn mẫu nào là mày ngài mắt phượng. Ánh mắt là ánh mắt, cũng như con người là con người; không có con người Bà la môn hay con người Sát đế lỵ. Chỉ có ánh mắt từ bi, trí tuệ hay sân hận, vô minh; tâm hồn  vị tha, lân mẫn hay ích kỷ, bạo tàn. Có thể nói suốt đời Thế Tôn, từ thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành, rồi xuất gia tu tập, hàng phục chướng duyên, chứng nhập Phật trí, thuyết pháp độ sanh, cho đến lúc sắp nhập Niết bàn, nằm giữa hai cây Sa la, Ngài luôn tiếp xúc với vạn loại hữu tình bằng ánh mắt từ bi vô lượng: Từ nhãn thị chúng sanh.


Ngay từ thời niên thiếu, thái tử Tất Đạt Đa đã thể hiện lòng thương yêu chim muông thú vật. Một hôm, Tất Đạt Đa và Đề Bà Đạt Đa đang chơi trong hoa viên, thấy đàn thiên nga bay qua, Đề Bà Đạt Đa trương cung bắn rơi một con. Tất Đạt Đa nhanh tay bế chim vào lòng, vuốt ve âu yếm. Đề Bà Đạt Đa nhào tới đòi chủ quyền. Tất Đạt Đa không trả lời, chỉ đưa mắt nhìn người em họ với mật ý: 


 Hình phạt, ai cũng kinh,


 Sinh mệnh, ai cũng tiếc, 


Lấy ta suy ra người, 


Chớ giết, chớ bảo giết” 


Đến lúc trưởng thành, sau khi thắng giải tranh tài, kết hôn với công chúa Da Du Đà La, Tất Đạt Đa ngồi trên lưng bạch tượng diễu qua kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Đề Bà Đạt Đa thua cuộc tỷ thí, ganh tức trong lòng, và cũng để khoa trương sức mạnh phi thường của mình, xông ra cản đường, tóm lấy yên cương, đấm chơi vào đầu voi một cú, thế là cả voi lẫn thái tử té nhào xuống đất. Tất Đạt Đa đưa tay xoa nhẹ chỗ voi bị đấm, đỡ nó đứng lên, rồi quay nhìn Đề Bà Đạt Đa bằng ánh mắt từ hòa, khuyến cáo:


 “Hại người không ác tâm, 


  Thanh tịnh và vô tội, 


Tội ác dội kẻ ngu, 


  Như ngược gió tung bụi” 


Sau khi chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác dưới cội bồ đề, sợ Chánh pháp được tuyên dương sâu rộng, ác pháp khó bề tung hoành, ba ái nữ kiều diễm của Mara là Rati, Arati và Trishna ra sức thuyết phục Thế Tôn dừng bước bằng những lời hát ca quyến rũ, ngữ nghĩa nồng nàn:


Bạn ơi, mùa Xuân đến rồi, mùa của tình tự yêu đương, của phấn hương tú lệ. Thảo mộc đang bừng rộ nở hoa; chúng ta phải vui lên nào. Đôi mắt của bạn đẹp làm sao, chúng lung linh như ánh đèn huyền diệu; bạn có nhiều biểu hiện vạn năng. Hãy ngắm chúng em. Chúng em được sinh ra đời để mang lại nguồn vui, nguồn hạnh phúc cho cả nhân loại và chư Thiên”.  


Trishna cất giọng ngâm:


 “Hỡi người yêu quý của em ơi,


 Từng cánh hoa xinh trải khắp cây, 


Hương hoa thoang thoảng quyện  đâu đây, 


Chim reo vui nhộn vang cành lá, 


Như trong lồng vàng hót ngất ngây. 


Từng cánh ong vờn hoa nhởn nhơ, 


Đê mê hút trọn nhụy hoa mơ, 


Kìa những dây leo ôm cổ thụ, 


Vươn gió hờn ghen động phất phơ, 


Giữa cảnh rừng xanh đẹp ý thơ, 


Ơi hồ nước bạc lặng như tờ, 


Như nụ cười tình duyên thiếu phụ,


Mừng đón trăng về thỏa ước mơ” 


Thế Tôn vẫn thản nhiên, mỉm cười với ánh mắt cảm thông, hậu ý nhưng không kém phần chuyển tải nghĩa lý vô thường:


 “Nhìn hình hài xinh đẹp, 


  Một khối nặng khổ đau, 


 Bịnh tật nhiều lo nghĩ, 


Có gì vĩnh cửu đâu!” 


Rồi một hôm, trên đường về Xá Vệ, Thế Tôn đi ngang qua một cánh đồng vừa thu hoạch. Điền chủ Bharadvaja cùng gia nhân  đang mở tiệc ăn mừng linh đình. Thấy Thế Tôn từ xa đi đến, Bharadvaja chạy ra dang hai tay chặn Thế Tôn, nói:


 – Ông đạo, mời ông đi ngay cho. Ở đây chúng tôi đang làm việc, đang vui mừng với thành quả lao động cày bừa của chúng tôi.


  – Ta cũng đang vui mừng với thành quả cày bừa của Ta. Thế Tôn mỉm cười nói.


 – Ông mà cũng có trâu bò, cày bừa, ruộng nương và hạt giống?


 – Có chứ!… Hiểu biết trong sạch là hạt giống tuyệt vời mà Ta gieo trồng. Tu tập thánh thiện là mưa lành tưới trên mặt đất phì nhiêu, hạt giống sẽ đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái và già chín trên đó. Ta cầm cày kiên cố: lưỡi cày là trí tuệ, chuôi cày là giáo pháp, thành tín là con bò thiến khỏe mạnh kéo cày. Ta cày đến đâu là ái dục trốc gốc như cỏ phơi trên đồng đến đó, và sản phẩm vụ mùa Ta thu hoạch chính là hoa trái vô sanh.


   Thấy Bharadvaja sững sờ, rồi sụp lạy, Thế Tôn mỉm cười. Ngài thường mỉm cười mỗi khi xúc sự, và nhìn ông với ánh mắt cảm hóa nồng nàn:


 “Từ bi thắng sân hận,


 Hiền thiện thắng hung tàn, 


Bố thí thắng xan tham,


Chân thật thắng hư ngụy” 


Cũng tại thành Xá Vệ, vũ nữ Kuvalada rất ngạo mạn về sắc đẹp kiều diễm và những vũ điệu bốc lửa của mình. Một hôm, đang quay cuồng trên sàn diễn với hàng ngàn người vây quanh bên dưới, chợt thấy Thế Tôn đi tới, Kuvalada xoay người chỉ tay nói lớn: “Các người thấy chưa? Ngay cả 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Gotama cũng chưa bằng cái nheo mắt của ta”


Thế Tôn bình thản theo từng bước thiền hành. Gần tới sân khấu, Ngài ngước mắt mỉm cười, nhìn vũ nữ với hàm ý:


 Thành này xây bằng xương,


Trét tô bằng thịt máu, 


Già chết và kiêu mạn, 


Hủy báng chứa nơi đây” 


Tay chân của Kuvalada bỗng nhiên rũ rượi, mặt mày choáng váng, ngã quỵ xuống sàn. Khán giả nhốn nháo, có người lớn tiếng nói: “Cho đáng kiếp chua ngoa, hỗn láo!”. Về sau, nàng quy y Tam bảo và là một trong những cận sự nữ trung kiên của Tăng đoàn.


Buồn nhất là anh chàng Chí Thiện, một thanh niên Phật tử thuần thành, muốn xuất gia theo Phật, cầu đạo giải thoát nhưng bị Mật Thủ, người bạn chí thân mai mỉa, cho rằng đi tu là ngu dại, là ăn bám xã hội, là bất trung với xã tắc, bất hiếu với tổ tiên, bất nghĩa với vợ con, trốn tránh trách nhiệm với đồng bào đồng loại v.v… Chí Thiện đâm ra hoài nghi, đau buồn, đến tinh xá Kỳ Viên mà không dám gặp Thế Tôn. Đọc được tâm tư phiền muộn của Chí Thiện, Thế Tôn nắm tay chàng dẫn về tinh xá, nói:


 – Con có gì vướng kẹt trong lòng thì tâm sự với Thầy, đừng để lâu ngày thành nội kết. Con biết đấy: Giang sơn dễ đổi, tập khí khó dời!…


Chí Thiện đưa tay lau nước mắt, đảnh lễ Thế Tôn, thuật lại tự sự, và nói: – Con hoang mang quá, bạch Thế Tôn!


– Hừ!… Có vậy mà hoang mang. 


Thế Tôn nhìn Chí Thiện mỉm cười, rồi vỗ vai chàng, khẳng định:


 “Người ngu biết mình ngu,


 Nhờ vậy thành có trí, 


Người ngu cho mình trí, 


Thật đáng gọi chí ngu!” 


Chí Thiện lại lau nước mắt, khấu đầu dưới chân Thế Tôn một lát, rồi đứng lên, và được phép khoác áo màu gạch từ đó.


Tìm hiểu cuộc đời thế tôn, ta thấy ánh mắt ngài lúc nào cũng trao truyền năng lượng, sưởi ấm lòng người qua mọi tình huống. ngày xuân, kính lễ thế tôn và nguyện chung sống hòa bình với nhân loại trong ánh từ quang của đạo Phật.