Nó là nét riêng góp phần tạo nên một bầu không khí tinh thần tự do, phóng khoáng, dễ thở ở nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội mà nhiều thế kỷ về sau dường như không còn tìm thấy lại; cũng chính nó đã góp phần tạo nên bản sắc ưu mỹ của văn hoá Việt Nam trong 5 thế kỷ tự chủ buổi đầu này.
Có thể coi đây là kết quả của nhiều điều kiện, nhiều nhân tố khác nhau nhưng trong đó theo chúng tôi, có một điều kiện hết sức quan trọng đó là sự cởi mở về quan điểm chính trị của các chính quyền nhà nước đương đại thuở ấy, do bản lĩnh và sự mẫn cảm phi thường của người nắm vận mệnh đất nước thấu hiểu được các yêu cầu của lịch sử, thể hiện cụ thể hoá bằng nhiều chủ trương chính sách của triều đình.
Những công việc song song và đan cài vào nhau suốt cả thời kỳ này, bao giờ cũng biểu hiện sự đối xử cân bằng vị thế giữa cả Phật, Nho và Đạo, như: vừa cho dựng chùa, lập các đạo cung, đạo quán, xây đền miếu, vừa cấp độ điệp cho sư sãi, đặt giai phẩm cho tăng đạo, sắc phong cho các vị nho thần, lại vừa cho dựng Văn Miếu và Quốc Tử Giám, mở khoa thi Nho học, đồng thời cũng mở cả khoa thi Tam giáo dành cho những quan chức chuyên trách việc tôn giáo, tế lễ hoặc những người làm giám tự các đền miếu, chùa chiền.
Chỉ dẫn chứng một ông vua là Trần Nhân Tông (1258 – 1308) thôi, ta thấy vừa đánh xong giặc Nguyên – Mông ít lâu ông đã cởi hoàng bào đi tu, làm vị tổ đầu tiên của giáo hội Trúc Lâm Yên Tử. Nhưng ông vẫn quan tâm bồi dưỡng nhân cách bậc hiền nhân quân tử theo các tiêu chuẩn của đạo Nho cho ông vua con kế vị và cho hàng ngũ bề tôi rường cột của triều đình. Mặt khác, ông cũng lo tổ chức cho nhiều đại thần công khanh thụ giới ưu bà tắc, tức là không xuất gia nhưng vẫn làm Phật tử tại gia.
Đặc biệt, chủ trương dung hợp Nho, Phật, Đạo của các vua Trần thời này lại không hề đi kèm với những biện pháp cứng rắn, mệnh lệnh, mà được thực hiện khá uyển chuyển, lấy việc thuyết phục và tự nguyện làm phương châm hàng đầu.
Khi vua Trần Anh Tông (1293 – 1320) viết bài thơ Chiêu Ẩn rủ Nguyễn Trung Ngạn đi tu, ông không theo, nhà vua cũng không ép. Thấy Trương Hán Siêu là người hăng hái bài Phật, vua Trần Minh Tông (1314 – 1357) liền cử ông đến làm giám tự chùa Quỳnh Lâm (khoảng sau 1342), và có lẽ những ảnh hưởng sâu sắc của sinh hoạt Phật giáo tại chùa này đã làm cho tư tưởng Trương Hán Siêu về cuối đời thay đổi hẳn:
Đời lênh đênh trước khác nay,
Thân nhàn mới biết trước ngày lầm tọ
(Dục Thuý Sơn)
Và Trần Thì Kiến, một vị đại thần khác, cũng đã nói lên được cái ý nghĩa sâu xa của việc dung hợp Phật – Nho bằng những câu thơ thâm thuý:
Rừng suối phải đâu là đại ẩn,
Chùa nhà ấy mới thực chân tu…
(Tặng An Lãng tự Phổ Minh thiền sư)
Chính là từ nhiều dạng thức hoạt động phong phú và mềm dẻo như trên, nền chính trị của các vương triều thuở bấy giờ đã có tác dụng cố kết lòng dân, giải toả dần mọi ức chế, ổn định tâm lý xã hội, và đưa ba hệ thống giáo lý, tư tưởng vốn rất xa cách là Phật, Đạo và Nho xích lại gần nhau; mặt khác quan trọng hơn, nó tạo điều kiện xuất hiện một đội ngũ trí thức cấp tiến tinh thông về nhiều mặt, tài hoa sắc sảo về trí tuệ, đáp ứng được mọi yêu cầu đa dạng của đời sống chính trị, xã hội và cả nhu cầu vi diệu của tâm linh, có thể gọi là một lực lượng xã hội định hướng, một động lực thiết yếu làm rường cột xã hội cho bất kỳ giai đoạn phát triển nào của lịch sử. “Đại Việt sử ký toàn thư” phải nói là bấy giờ “nhân tài đầy rẫy”, và nhà sử học Lê Quý Đôn cũng nhận định: “Bởi vì nhà Trần đãi ngộ sĩ phu rộng rãi mà không bó buộc, hoà nhã mà có lễ độ, cho nên nhân vật trong một thời có chí khí tự lập, hào hiệp, cao siêu, vững vàng vượt ra ngoài thói thường, làm rạng rỡ sử sách” (Kiến văn tiểu lục).
Lê Quý Đôn tuy hình dung họ như những gương mặt nhà nho tiêu biểu, nhưng muốn hiểu được sức mạnh tinh thần của những con người ấy thì phải nhìn sâu hơn vào những nhân tố nhiều mặt kết hợp ở bên trong – một tổng lực thâm hậu – mà phải trải qua một quá trình mới có thể tạo nên được.
Như vậy, không thể không thừa nhận sự cởi bỏ những ràng buộc khắt khe về một hệ tư tưởng độc chuyên nào đấy, về một thứ tôn giáo độc trị nào đấy, nhằm đi đến một sự hỗn dung, điều hoà, đa dạng về tư tưởng, là một thực tế có ý nghĩa tích cực ở thời Lý – Trần, đã giúp cho sự hội nhập văn hoá dưới thời Lý – Trần diễn ra thuận lợi, dễ dàng.
Là một trong những trung tâm văn hoá Phật giáo tiêu biểu bậc nhất thời Lý – Trần, chùa Quỳnh Lâm chắc chắn phải có những bằng chứng về sự hội nhập Phật, Nho và Đạo đã nói. Nhưng ngày nay, thời gian đã làm cho tất cả những gì tồn tại ở đây đều bị tàn phá. Để tìm ra dấu vết của sự hội nhập, thế tất phải dựa vào các cứ liệu gián tiếp, nhằm dựng lên một giả thuyết cho người nghiên cứu. Có ba loại cứ liệu:
1. Sự tích các nhân vật “truyền thừa” ở chùa Quỳnh Lâm còn biết được, như Không Lộ, Pháp Loa…
2. Những truyền thuyết, giai thoại về chùa Quỳnh mà nhân dân quanh vùng vẫn kể.
3. Thơ văn của Bích Động thi xã, một thi xã gắn bó mật thiết với chùa Quỳnh Lâm vào thời Lý – Trần.
Lần lượt, các mảng tài liệu nói trên sẽ bổ sung cho nhau, rọi một vài tia sáng vào màn tối của quá khứ, giúp nhận dạng phần nào các lớp nền đã bồi đắp thành bề dày văn hoá ở Quỳnh Lâm. Với nhân vật Không Lộ (? – 1119) và các truyền thuyết xoay quanh Không Lộ thời Lý, như việc đúc tượng đồng chùa Quỳnh Lâm cao 6 trượng 6 thước (bia trước chùa còn ghi lại), hoặc các phép thuật siêu việt của con người này, ta thấy hiện diện ở đây một nền văn hoá Phật giáo bắt rễ sâu vào văn hoá dân gian bản địa cổ truyền, kể cả tín ngưỡng Đạo giáo đã được dân gian hoá từ lâu đời (Không Lộ là một trong những bằng chứng của sự kết hợp chặt chẽ giữa Thiền và Phật giáo).
Lễ hội chùa Quỳnh rất nổi tiếng trước đây có gốc rễ xa xưa trên cơ sở đó. Triết lý dân gian đã làm cho tư tưởng nhà Phật thêm khoẻ mạnh, và các hình thức sinh hoạt phong phú của dân gian giúp nó thâm nhập vào nhiều mặt của đời sống. Màu sắc của sinh hoạt phồn thực rất đậm nét trong các hình thức lễ hội vùng này, còn được thơ ca dân gian trong vùng ghi lại:
Vua tu Phật hoá vui vui nhỉ,
Chả trách ngày xưa gái lộn chồng
Với các hoạt động của nhân vật Pháp Loa (1284 – 1330) vào thời đại Trần, chùa Quỳnh Lâm bước vào chặng đường phát triển thứ hai, trở thành một Thiền viện, một trường sở Phật học quy mô, bề thế, nơi đào tạo rất bài bản người tu Phật thông qua kinh sách và mọi nghi thức thụ giới nghiêm ngặt của nhà chùa.
Nhưng nói chung, cách thức giảng tập đạo Thiền lại không phải là khô khan trừu tượng, cũng không phải thụ động theo lối thầy nói trò nghe, mà diễn ra như những sinh hoạt văn nghệ dân gian lý thú, có đối thoại, có diễn xướng, có lời ca, thậm chí có cả những động tác có tính chất đóng trò rất sinh động.
Mặt khác, quan điểm Phật giáo chiếm ưu thế ở các bài giảng của Pháp Loa là tư tưởng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, nó nặng phần nhập thế, hiện hữu và không cứng nhắc trong tư duy, cũng không xoá bỏ mất bản ngã. Phật giáo ở đây rõ ràng đã được điều chỉnh bởi tinh thần thực tiễn.
Với phần thơ văn còn lại của Bích Động thi xã, Quỳnh Lâm còn là nơi trú ngụ của các nhà thơ – chính khách – cư sĩ, rất gắn bó với thiên nhiên, biết tìm cho mình những phút giây thanh tịnh, có lúc thấm đậm tinh thần thoát ly của Đạo giáo quyện lẫn với tư tưởng Thiền, như nhiều bài thơ của Trần Quang Triều, Nguyễn Sưởng, Nguyễn ức, Nguyễn Trung Ngạn, mà ở đây chỉ xin dẫn một bài:
Nguội ngắt lòng danh lợi,
Am thiền rảo gót qua.
Xuân chầy, hoa mỏng mảnh,
Rừng thẳm, ve ngân nga.
Mưa tạnh, da trời biếc,
Ao trong, ánh trăng ngà.
Khách về, sư biếng nói
Thông rụng, nức mùi hoạ
(Đề Gia Lâm tự – Trần Quang Triều).
Tuy nhiên, trong chỗ sâu nhất của tâm hồn, tư tưởng, lớp người này vẫn ẩn giấu tình cảm sâu nặng của những nhà Nho nhập cuộc, không thôi thao thức về ý thức trách nhiệm đối với nước và dân:
Gió vờn trụ đá hạc lên tiên,
Mây phủ nhà tranh rồng ngủ yên.
Chợt nghĩ đến dân rầu khúc ruột,
Chuông Quỳnh lạnh thấm ánh trăng đêm.
(Trùng đáo Quỳnh Lâm Bích Động am lưu đề – Nguyễn Sưởng).
Tóm lại, dưới hình thức một Thiền viện, Quỳnh Lâm thời Lý – Trần thực chất là hình ảnh thu nhỏ của một sự dung hợp văn hoá, bắt nguồn từ mạch sống của một xã hội đang tự phát hay tự giác kéo dãn những ràng buộc khắt khe về hệ tư tưởng, làm cho mọi tiềm năng ngày càng nảy nở.
Chỉ từ giữa thế kỷ XV trở đi, Nho giáo trở thành độc tôn, hiện tượng dung hợp nói trên mới bị quan điểm chính thống của vương triều Lê sơ xoá bỏ. Tuy vậy, trong tâm lý và trong sinh hoạt lâu đời của người dân, việc xoá bỏ không phải là dễ dàng.
Trên Phật điện ở các chùa chiền Việt Nam, bên cạnh bàn thờ Phật bao giờ cũng có một toà riêng thờ Mẫu, biểu tượng của Đạo giáo và tôn giáo dân tộc. Và cuộc đấu tranh dai dẳng giữa Nho và Phật cũng đã diễn ra, sôi nổi kéo dài suốt nhiều thế kỷ mà thơ ca dân gian xung quanh chùa Quỳnh Lâm còn ghi lại:
Một bên Phật giáo thách đố:
Quỳnh Lâm khánh đá chuông đồng,
Muốn chơi thì bỏ của chồng mà chơi.
Một bên Nho giáo thách đố lại:
Của chồng lắm lắm em ơi,
Bao giờ trả hết đi chơi chùa Quỳnh.
Cuộc đấu tranh không phân thắng bại này chính là một biểu hiện tự phát của người dân chống lại những chủ trương cực quyền của giai cấp thống trị phong kiến muốn dùng Nho giáo để duy trì sự thống trị của nó.








