Trang chủ Diễn đàn Chấn hưng Phật giáo Những suy nghĩ về ngày Tự tứ

Những suy nghĩ về ngày Tự tứ

70

Trong suốt 45 năm hoằng pháp, từ lúc thuyết pháp đầu tiên, đến những năm tuổi già sức yếu, cho đến những ngày sắp nhập Niết bàn vào năm 80 tuổi, Thế Tôn vẫn ngày qua ngày, du hành đến khắp nơi chốn, từ các làng quê nghèo khó thuộc vùng thảo nguyên  rừng núi với vực sâu, vách đá; đến các thị thành thuộc vùng bình nguyên sông nước mênh mông khó vượt.

Đôi chân Ngài đã bước đi trên những con đường mà vào thời ấy chắn hẳn là rất nhỏ hẹp, đầy đất đá, buội mù, bùn lầy nước đọng. Lục địa Ấn Độ khi xưa, thiên nhiên rất khắc nghiệt, mùa nắng thì nóng bức khô hạn nhiệt độ lên đến 40 độ C, mùa mưa thì lủ lụt triền miên, mùa đông không khí lạnh từ phương bắc thổi về mang theo cái lạnh thấu xương.

Việc đi lại rất khó khăn, từ làng nầy đến làng kia, từ thị trấn nầy đến thị trấn nọ cách nhau rất xa. Do Thế Tôn có dáng đi oai nghi thong thả, nên nhiều khi phải mất nhiều  tháng trời mới đến nơi được. Đường xá hiểm trở, đầy rừng cây bụi rậm, côn trùng và thú dử luôn rình rập.

Trên bước đường thuyết pháp độ sinh, hàng đêm Thế Tôn vẩn dừng chân an nghỉ tại tại các nơi chốn thật đơn sơ giản dị, lều tranh mái cỏ, gốc cây, hang đá . .    Ngài chỉ ngụ trong các tịnh xá mái lá tại các bìa rừng trong mùa an cư.

Cứ vào mỗi bưổi sáng, Thế Tôn vẫn tự mình thực hiện hạnh khất thực  từng nhà với ba y một bình bát, đến trưa trở về dưới gốc cây dùng bữa theo hạnh nhất tọa thực với đồ ăn thức uống thô sơ đạm bạc, có gì ăn nấy.

Trên quãng đường hoằng pháp xa xôi vạn dặm, cơ cực, gian khổ, nhiều nguy hiểm ấy, không phải lúc nào bậc Đạo sư và các đệ tử đều được hoan nghênh, có người từ chối bố thí thức ăn, nước uống, thậm chí buông lời  nhục mạ.

Với lòng từ bi vô hạn, với lòng thương tưởng vì lợi ích, vì hạnh phúc và sự an lạc của chư thiên và loài người, Thế Tôn đã khéo dùng biết bao phương tiện, biết bao công sức, ròng rã suốt 45 năm trời, chỉ với mục đích duy nhất là giúp tất cả chúng sinh, thuộc đủ mọi giai cấp, mọi thành phần, trong đủ mọi loài thoát khỏi cảnh khổ đau, thoát khỏi sầu bi khổ ưu não.

Nhân ngày tự tứ, là ngày phê bình và sám hối của các vị xuất gia sau 3 tháng an cư, chúng ta tuy là cư sỹ, vào dịp quý báo này, cũng phải thành tâm nhìn lại mình, nhìn lại trong thời gian qua, chúng ta có sống theo đúng lời dạy của Thế Tôn chưa, điều gì đã thực hiện được, điều gì chưa thực hiện được, do đâu? Bởi nguyên nhân gì? Để sau đó thành tâm sám hối mà quyết tâm nổ lực hơn nửa!

Để có thêm điều kiện tham khảo trong việc kiểm tra lại lối sống của chúng ta hôm nay, chúng tôi xin được mạn phép thử đối chiếu sơ lược về một số lĩnh vực trong đời sống thường ngày của chúng ta hiện nay với đời sống của các vị Tỷ-kheo thời Thế Tôn còn tại thế.

1/  Nơi ở:

1.1.Khi xưa:
           – Tại các vùng hẻo lánh không gian tĩnh lặng, xa chốn thị thành, thuộc vùng thảo nguyên, rừng núi;
           – Tại các khu rừng thuộc vùng ngoại ô thành thị.
1.2. Hôm nay:
           – Tại các vùng tập trung dân cư ở thôn quê, xã, huyện
           – Tại các chốn thị thành ồn ào, náo nhiệt, dân cư đông đúc.

2/ Chỗ ở:

2.1.Khi xưa:
           – Trong hang đá, nghĩa trang, dưới gốc cây, đống rơm . . .
           – Trong thảo am chỉ đủ cho một người, cất ở ven rừng hay trong tịnh xá .
2.2. Hôm nay:
           – Nhà cấp bốn, nhà phố, chung cư, căn hộ cao cấp, biệt thự,   
           – Tịnh xá, giảng đường, chùa, thiền viện, viện . . .đủ chổ cho hàng trăm hay nhiều ngàn người

3/ Đi lại:

3.1.Khi xưa:
           – Đi bộ
           – Đường giao thông rất nghèo nàn, thô sơ, hiểm trở, lệ thuộc vào thiên nhiên
           – Môi trường thiên nhiên hoang dã, nhiều hiểm nguy về cướp bóc, thú dử, bệnh tật     
3.2. Hôm nay:
       – Đi xe gắn máy, xe ô tô  máy lạnh, xe lửa, tàu thủy, máy bay
       – Giao thông thuận lợi, rút ngắn khoảng cách về địa lý
       – An ninh xã hội bảo đảm, các nguy hiểm trong tự nhiên rất ít.

4/ Độ nhật:

4.1.Khi xưa:
       – Đi khất thực từng nhà
       – Thọ thực cúng dường tại nhà gia chủ
       – Dân cư thưa thớt, kinh tế chưa phát triển, đời sống nông dân còn thiếu thốn nhiều, việc bố thí lương thực bị hạn chế.
4.2. Hôm nay:
       – Thọ thực tại tịnh xá, giảng đường, chùa, thiền viện, viện . . .
       – Tại nhà thí chủ
       – Tại tiệm cơm, nhà hàng
       – Kinh tế phát triển, đời sống người dân đầy đủ, dể thực hiện việc bố thí.

5/ Thức ăn, thức uống:
  5.1.Khi xưa:
       – Không phân biệt loại thức ăn ( trừ các loại thịt không phải là tam tịnh nhục )    
       – Chứa chung các loại thức ăn trong bình bát
       – Một ngày chỉ ăn một buổi, vào giửa trưa, quán tam tướng. . . khi ăn, thuyết pháp cho thí chủ khi nhận cúng dường
       – Hầu như chỉ có một loại đồ uống là nước lả, thường là nước ao hồ, sông suối
   5.2.Hôm nay:
       – Phân biệt thức ăn chay và mặn
       – Rất nhiều loại thức ăn, nhiều loại thức ăn chay có tên và mùi vị nhân tạo giống thức ăn mặn.
       – Rất nhiều đồ dùng, chén bát, trang trí đủ kiểu
       – Thường phân biệt mặn lạt, nóng nguội, ngon dở, ít nhiều . . .
       – Rất nhiều loại đồ uống: bia, rượu, trà, cà phê, nước tinh khiết, nước rau quả . . .

6/Y phục:

  6.1. Khi xưa: Mỗi người chỉ có 3 y ( y dưới, y trên, y ngoài ), y làm bằng:
       – Phấn tảo y ( y rách nát, nhặt được do người khác vứt bỏ )
       – Y may bằng nhiều mảnh nhỏ, vải củ rách hay thô xấu
       – Y chỉ có màu đất
       – Y mặc chừa trống vai phải
       – Không đội mủ, nón, găng tay
       – Thường không mang dép trừ trường hợp bị bệnh

  6.2. Hôm nay:  Cá nhân có nhiều y phục làm bằng:
       – Rất nhiều loại vải sợi
       – Rất nhiều kiểu dáng, nhiều màu sắc
       – Luôn ủi là tươm tất
       – Đội mủ, nón; mang găng tay, giày, dép nhiều kiểu, nhiều màu sắc

7/ Tiện nghi sinh hoạt giải trí, học tập, làm việc:

7.1. Khi xưa:
       – Không có tiện nghi sinh hoạt giải trí
       – Thời gian trong ngày bao gồm ngủ, khất thực, thọ thực, thiền định, thăm viếng đàm     luận, thuyết pháp, nghe thuyết pháp, đi kinh hành . . .
       – Không có kinh sách
       – Không trường lớp, bàn ghế
       – Không bằng cấp, học vị
       – không nhiều chức vụ, quyền hạn, quyền lợi
       – Tự thuyết giảng hay sẳn sang thuyết giảng, giải đáp khi có người hỏi, không phân biệt giai cấp, giàu nghèo
7.2. Hôm nay:
       – Rất nhiều tiện nghi sinh hoạt giải trí ( vì tâm trí bị cột  nên cần phải giải )
       – Rất nhiều phương tiện làm việc, thuyết giảng
       – Rất nhiều tiện nghi: Mắt kiếng, đồng hồ, giày dép, tiền, điện thoại di động, tivi, video, máy tính, internet, máy lạnh, tủ lạnh, bếp ga, máy giặt, máy nước nóng, lò viba, xe Honda, xe hơi, nhà cửa, đất đai, chứng khoán. . .
       – Nhiều trường trung cấp, cao đẳng, đại học; thư viện, giảng đường, kinh sách, báo tạp chí, phim ảnh, micro, máy chiếu, vi tính, internet, Mp3, Mp4, băng dĩa . . .
       – Nhiều loại bằng cấp, học vị, học bổng
       – Rất nhiều chức vụ ở nhiều ngành, nhiều cấp bậc với nhiều quyền hạn, quyền lợi

8. Y tế:

8.1. Khi xưa:
       – Chỉ dùng thuốc từ thảo dược
       – Điều kiện chăm sóc y tế còn đơn sơ.
       – Tuổi thọ thấp
 8.2. Hôm nay:
       – Nhiều loại thuốc phòng trị bệnh
       – Điều kiện chăm sóc y tế  phát triển
       – Tuổi thọ cao

Qua bảng đối chiếu sơ lược trên, chúng ta nhận thấy việc tu học hôm nay có nhiều thuận lợi hơn khi xưa rất nhiều, điều kiện và phương tiện để tu tập phong phú và đa dạng hơn bao giờ hết.

Khi xưa, thời Đức Phật có rất nhiều vị Tỷ-kheo, Tỷ-Kheo-Ni đắc A-La-Hán, các vị ấy thuộc nhiều thành phần, có vị thuộc giai cấp thấp nhất trong xã hội thời bấy giờ.

Do bị ràng buộc bởi đời sống thế tục, nên người cư sỹ gặp nhiều khó khăn trên con đường tu học, dù vậy vẩn có nhiều vị  đắc A-La-Hán. Tăng Chi Bộ Kinh ghi lại, có đến 21 vị gia chủ trở thành A-La-Hán mà chưa hề xuất gia làm Tỳ-Kheo.

Đến nay, chưa có công trình nghiên cứu, thống kê đáng tin cậy về các vị xuất gia và cư sỹ đắc đạo trong khoản thời gian nhiều thế kỷ qua, các kinh sách cũng chưa ghi lại nhiều các trường hợp đắc A-La-Hán. Thế nên các trường hợp nầy, chắc hẳn là rất ít.

Bạch Thế Tôn, do nhân gì, duyên gì, lúc xưa các học giới ít hơn, nhưng các Tỳ-Kheo ngộ nhập tri kiến nhiều hơn. Bạch Thế Tôn, lại do nhân gì, duyên gì, ngày nay các học giới nhiều hơn, nhưng các Tỳ-Kheo chứng nhập tri kiến ít hơn“     [Kinh Trung Bộ ]