Trang chủ Thời đại Xã hội Phật giáo với sứ mạng xây dựng nền tảng đạo đức trong...

Phật giáo với sứ mạng xây dựng nền tảng đạo đức trong xã hội Trung Quốc hiện nay

81


Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc từ bao lâu nay là điều không thể phủ nhận. Tư tưởng, nội dung, hình thức lễ nghi của Phật giáo Bắc Tông Việt Nam không thể nói là không xuất nguồn từ Phật giáo Trung Quốc được. Tư tưởng “nhân gian Phật giáo” ở Trung Quốc cuối thế kỷ XIX là động lực thúc đẩy phong trào chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ XX. Lịch sử sang trang Phật giáo của hai nước cùng trải bao thăng trầm của thời cuộc. Thời đại mới đã mở ra cho Phật giáo Trung Quốc thách thức mới cùng sứ mạng to tát mới. Phật giáo Việt Nam rồi sẽ ra sao? Chúng ta cần chuẩn bị gì để gánh vác sứ mạng mới nếu lịch sử dân tộc cần đến chúng ta?


Thành tựu kinh tế và cuộc sống tinh thần đạo đức xã hội Trung Quốc ngày nay


Thành tựu kinh tế vươt bâc của Trung Quốc sau 31 năm đổi mới đã làm cho cả thế giới phải kinh ngạc. Từ một nền kinh tế kiệt quệ sau chiến tranh Triều Tiên, bốn nước nhảy vọt và mười năm Cách mạng văn Hóa, Trung Quốc ngày nay là cường quốc trong cac nước đang phát triển, là công xưởng của toàn thế giới, dần dần thay thế Nhật Bản để trở thành đầu tàu kinh tế Á Châu, và đã có thể ngồi chung bàn để thảo luận những vấn đề kinh tế thế giới với lãnh đạo các cường quốc G7. Năm 2005, Trung Quốc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nuớc ngoài nhiều nhất thế giới, vượt qua cả Mỹ. Năm 2006, Trung Quốc trở thành nước có nguồn dự trữ ngoại tệ nhiều nhất thế giới vượt qua cả Nhật Bản.


Những thành tựu kinh tế kể trên đã đem lại sự thay đổi to lớn về mặt vật chất trong đời sống xã hội Trung Quốc. Thống kê từ công báo của Tổng cục thống kê của chính phủ cho biết tổng giá trị sản xuất năm 2005 là 182.321 ức nhân dân tệ [1] tăng trưởng cao hơn năm 2004 là 9.9%. Dự trữ ngoại tệ đạt 8189 ức đô la Mỹ, tăng hơn năm trứơc 2089 ức đô la Mỹ [2]. Năm 2005, tổng giá trị xuất nhập khẩu là 14.221 ức đô la Mỹ, tăng hơn năm trước 23,2 %. Trong đó xuất khẩu là 7.620 ức đô la Mỹ, tăng 28,4 %, nhập khẩu là 6.601 ức đô la Mỹ tăng 17,6 %. Xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu 1019 ức đô la Mỹ. Thu nhập của người nông dân bình quân một năm là 3.255 nhân dân tệ [3] tăng 6,2 %. Thu nhập của cư dân thành thị bình quân một năm là 10.493 nhân dân tệ, tăng 9,6%


Sự phát triển của Trung Quốc trong lãnh vực kinh tế được đánh giá là sự phát triển thần tốc. Nhà sử học nổi tiếng thế kỷ XX của Anh, ông Arnold Toynbee đã nói: “Thế kỷ XIX là thế kỷ của Anh, thế kỷ XX là thế kỷ của Mỹ, thế kỷ XXI là thế kỷ của Trung Quốc”. Sự lớn mạnh của Trung Quốc về lãnh vực kinh tế đã nâng cao địa vị của Trung Quốc trên trường Quốc Tế rất nhiều. Nhiều vấn đề của thế giới hiện nay không thể thiếu tiếng nói từ phía Trung Quốc. Tháng 5 năm 1990 giáo sư Thôn Tĩnh Hữu Tú (村井友秀) của trường Đại học Phòng Vệ Nhật Bản là người đầu tiên đã đưa ra thuyết “Sự uy hiếp của Trung Quốc” ( Trung Quốc uy hiếp luận) đã chứng tỏ sự trỗi dậy của Trung Quốc ngày nay


Thành tựu kinh tế vượt bậc cũng đã phơi bày những mâu thuẫn to lớn trong xã hội. Những mặt trái của xã hội lần lượt được phơi bày. Lòng người hoang mang khi trật tự trị an không được bảo đảm. Nhiều vụ án giết người chỉ vì mấy trăm đồng nhân dân tệ không ngừng gia tăng, những tranh chấp dù là rất nhỏ trong cuộc sống vẫn dẫn đến án mạng là chuyện thường ngày vì những mối quan hệ thiếu hẳn tình người ngày càng lớn trong xã hội. Nhiều lỗ hổng lớn trong nền tảng đạo đức xã hội lấy giả làm thật, bằng cấp giả, hàng giả, tiền giả, báo cáo giả…dãy đầy. Tình trạng tham ô, tham nhũng tràn lan khắp mọi lĩnh vực trong cuộc sống, làm cho lòng người càng thêm hỗn loạn, xã hội mất hẳn nếp sống đạo đức kiểu mẫu.


Tư tưởng truyền thống “dĩ hòa vi quí” của Trung Quốc giờ đây không còn nữa. Xã hội Trung Quốc ngày nay cuộc sống vật chất sung túc hơn nhưng lòng người lạnh nhạt, tham ô, tham nhũng hoành hành, xã hội thiếu vắng niềm tin, trong cuộc sống không còn biết đâu là đúng, đâu là sai. “Nguy cơ đạo đức nay không phải do một ngày một giờ tạo nên mà nó là cả một sự tích lũy lâu dài. Là hệ lụy của quá trình “nguy cơ tín ngưỡng” cuối thập niên 70 của thế kỷ trước, là kết quả của Cách mạng văn Hóa cùng chính sách tôn giáo. Lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh hành động đã làm cho mọi người thiếu niềm tin lẫn nhau, không dám nói thật, sống thật với chính mình và với cả người khác; nhất là tư tưởng “hoài nghi tất cả, phủ nhận hết thảy” được cổ súy trong suốt mười năm cách mạng văn hóa đã không những đập phá hết thảy tư tưởng Khổng Tử và nền đạo đức Nho Gia được xây dựng từ mấy nghìn năm ở Trung Quốc mà còn đạp đổ tất cả mọi khuôn phép đạo đức tôn giáo đã hiện hữu bao đời trong xã hội Trung Quốc.


Có thể nói cuộc sống vật chất đầy đủ hơn nhưng lòng người Trung Quốc không còn phương hướng và cuộc sống tinh thần vô cùng trống vắng. Mối xung đột trong quan hệ giữa con người với môi trường thiên nhiên, xung đột trong những mối quan hệ giữa người với người, khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, văn minh cuộc sống không còn tồn tại nếp sống gương mẫu, đạo đức trống không. Những khẩu hiệu trị quốc và phong trào quần chúng nhằm kích thích lòng dân của Đảng và nhà nước Trung Quốc thiếu tính thực tế đã không còn tác dụng cổ vũ và khó được người dân thực tâm tiếp nhận như trước đây nữa. Đây là những vấn đề xã hội vô cùng nghiêm trọng mà các nhà lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc đang phải đối mặt trước thực tế xã hội ngày nay.


Phật giáo Trung Quốc trong năm mươi năm qua.


Sau cuộc chiến Quốc Cộng, Tưởng Giới Thạch cùng Quốc Dân Đảng chạy sang Đài Loan. Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được thành lập tại Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông. Phật giáo Trung Quốc bước vào môt giai đoạn lịch sư mới. Nhiều bậc đống lương phật giáo Trung Quốc là học trò và là người kế thừa tư tưởng “nhân gian Phật giáo của bốn vị đại sư Phật giáo Trung Quốc là Thái Hư, Ấn Quan, Hư Vân, Hoằng Nhất như các vị Ấn Thuận, Bạch Thánh, Diễn Bồi, Tuyên Hóa, cùng các vị Tinh Vân, Thánh Nghiêm, Duy Giác… đã chuyển đến hoằng pháp ở Đài Loan và Hồng Kông. Nội lực của Phật giáo đã dần suy yếu sau nấc thang lịch sử mới. Tiếp sau đó là chính sách tôn giáo cùng cách mạng văn hóa đã làm cho Phật giáo Trung Quốc hoàn toàn mất đi khả năng và sứ mạng hoằng pháp của mình trong xã hội mới ở Trung Quốc. Chùa chiền bị đập phá, biến đổi dùng vào mục đích khác, văn vật, kinh Phật bị thất lạc, bị tiêu hủy, Tăng đoàn hoàn toàn không còn nữa, Phật học viện bị đóng cửa và điều đau đớn cho Phật giáo Trung Quốc hơn cả là niềm tin tôn giáo của quần chúng nhân dân hoàn toàn bị tiêu diệt, cho đến tận ngày nay trên 60% dân số Trung Quốc không có hay chỉ có rất ít niềm tin tôn giáo.


Sau cải cách mở cửa cùng với chính sách “dùng tôn giáo kích thích du lịch” nhiều chùa chiền được trùng tu và mở cửa đón khách tham quan tạo nguồn kinh tế, công ăn việc làm cho xã hội. Cuối thập niên 70 thế kỷ trước tại Đài Loan, tổng thống Tưởng Kinh Quốc thực hiện chính sách bỏ lệnh giới nghiêm đối với Trung Quốc, cho phép người Đài Loan trở về Trung Quốc thăm thân nhân, du lịch. Làn song “hướng Tây”[4] của thương nhân Đài Loan bắt đầu ồ ạt đổ tiền của vào đầu tư ở Trung Quốc. Mặc dù chính sách “hướng nam” [5] và “tích cực quản lí” để ngăn chặn làn sóng “hướng tây” của thương nhân Đài Loan. Nhưng đến năm 2004, nguồn vốn của Đài Loan đầu tư vào Trung Quốc đã đạt hơn bảy tỷ đô la Mỹ [6].


Quan hệ giữa Đài Loan và Trung Quốc bắt đầu từ kinh tế phát triển dần sang lĩnh vực văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật, giáo dục, nghiên cứu học thuật,…Cùng với sự quan hệ giữa hai bờ eo biển ngày thêm sâu rộng, Phật giáo Đài Loan dưới sự lãnh đạo của chủ sơn trưởng lão đến từ Trung Quốc đã bắt đầu đem Phật giáo từ Đài Loan truyền trở về Trung Quốc. Đồng thời giúp đỡ tài lực, vật lực cho Phật giáo Trung Quốc trong những phương diện lập lại Phật học viện đào tạo tăng tài, Ấn Tống Đại Tạng, kinh sách và băng đĩa Phật giáo về Trung Quốc, tổ chức hội thảo Phật giáo hai bờ eo biển…


Những đoàn hành hương chiêm bái trở về nguồn cội của các vị trưởng lão Đài Loan trong những lần trở về Trung Quốc với phái đoàn trên cả ngàn tăng ni, và Phật tử đã góp phần ảnh hưởng không nhỏ đến sự hồi phục của Phật giáo Trung Quốc từ thập niên 80 của thế kỷ trước đến nay. Trong quá trình hồi phục này, sự đóng góp của Phật giáo Đài Loan cùng Phật giáo Trung Quốc ở hải ngoại là không nhỏ. Hồi phục để lớn mạnh đủ gánh lấy trách nhiệm hoằng pháp lợi sinh, tinh hóa nhân tâm của Phật giáo Trung Quốc trong thời đại mới còn là một quá trình nhiều khó khăn và cần biết bao tâm huyết.


Nhìn chung Phật giáo Trung Quốc còn đang trong quá trình khôi phục lại sau thời gian bị suy tàn trong cách mạng văn hóa. Qua số lượng thống kê sau, chúng ta có được cái nhìn tổng quát về Phật giáo Trung Quốc:


Trung Quốc: Khoảng 100 triệu tín đồ trong dân số 1,3 tỷ người. Chùa viện hơn 20.000 ngôi, trong đó Hán Tạng Phật giáo hơn 15.000 ngôi (chủ yếu dung làm thắng cảnh du lịch, không có hoạt động hoằng pháp, trừ một số ít). Phật giáo Tây Tạng có hơn 4.000 ngôi. Nam Truyền Phật giáo hơn 1.300 ngôi. Số lượng tăng ni của cả ba ngữ hệ là hơn 200.000 vị. Trong đó, Phát giáo Hán Tạng có hơn 100.000 vị, Tạng Truyền Phật giáo gần 100.000 vị, Nam Truyền Phật giáo gần 5000 vị. Trường viện Phật học của cả ba ngữ hệ có 34 ngôi. Số lượng học tăng đang theo học là 4.000 vị, đã tốt nghiệp từ trước đến nay là 6.000 vị. Báo và tạp chí Phật giáo cả ba ngữ hệ gần 30 tờ.


Đài Loan: Năm triệu tín đồ trong dân số 23 triệu người chiếm số lượng lớn nhất trong các tôn giáo tại Đài Loan. Chùa viện có 4.000 ngôi. Tăng ni 10.000 vị. Các tổ chức Phật giào lớn gồm: Phật Quang Sơn, Trung Đài Thiền Tự, Pháp Cổ Sơn, Từ Tế Cơ Kim hội, hội Phật Giáo Trung Quốc, hiệp hội tự viện Trung Hoa, hội thanh niên Phật giáo Trung Hoa.


Hồng Kông: Gần một triệu tín đồ trong dân số 6.895.500 người.


Tổ chức Phật giáo chính gồm: Hội liên hiệp Phật giáo Hồng Kông, Hội liên hiệp Tăng già Phật giáo Hồng Kông, Trung tâm Hoằng pháp Tam Đức, các chùa chính là: Quán Tông tự, Bảo Liên thiền tự, Chí Liên Tịnh Uyển.


Ma cao: Dân số 480 000 người gồm một nửa là tín đồ Phật giáo. Tăng ni chưa tới 100 vị, có hơn 40 ngôi chùa lớn nhỏ thuộc thiền tông và tịnh độ tông


Nhu cầu cần thiết phải dùng giáo lý Phật đà để xây dựng nền tảng đạo đức cho xã hội hiện đại


Thực trạng đạo đức trong xã hội Trung Quốc hiện nay đang là vấn đề mà người dân rất quan tâm. Các nhà lãnh đạo cũng bắt đầu lo âu trước thực trạng nếp sống đạo đức trong xã hội đang gặp nguy cơ. Quan trường tham ô tham nhũng, tha hoá thối nát. Thương trường hàng giả, tiền giả tràn lan, học đường bằng giả, học vị giả dãy đầy. Bệnh viện chỉ biết mưu lợi mất hẳn nền tảng y đức, học thuật. việc đạo văn, chép văn thành nếp. Người giàu không biết hay từ chối làm thiện, công nhân bị sa thải thất nghiệp nghiêm trọng, tâm lý thù ghét người giàu trong xã hội dần dần phát khởi, trật tự trị an xã hội xuống cấp, tệ nạn văn hoá làm cho xã hội thiếu lành mạnh, ý thức đạo đức còn tẻ nhạt. Đầu năm 2006, Cục thống kê quốc gia công bố kết quả điều tra cho thấy nhân dân quan tâm nhất là “tệ nạn xã hội” và “đạo đức xã hội xuống cấp”. Nếp sống xã hội được phản ảnh bởi mối quan hệ giữa người với người, mức độ căng thẳng giữa người với người. Dù chỉ số Gini để đo đạc sự ổn định xã hội thì 0,3 đến 0,4 là bình thường, quá 0,4 là mức cảnh báo, trên mức 0,6 thì xã hội sẽ mất ổn định. Trong khi đó chỉ số Gini của Trung Quốc hiện nay là 0,48 vượt qua mức cảnh báo [7]


Ông Diệp Tiểu Văn – Cục trưởng cục Tôn Giáo Quốc Vụ Viện chính phủ kiêm Hội trưởng Hiệp Hội Giao Lưu Văn Hoá – Tôn giáo Trung Hoa nói: ”Sự căng thẳng trong quan hệ giữa người và người, người với hoàn cảnh môi trường tự nhiên đã dẫn đến lo lắng hoang mang trong cuộc sống của người dân trong xã hội. Tnạn xã hội đầy dãy, mất hẳn nếp sống gương mẫu trong xã hội nảy sinh từ những phát triển quá mau đã hình thành những mối mâu thuẫn khó lựa chọn trong cuộc sống như mâu thuẫn giữa đòi hỏi sự cạnh tranh bình đẳng với mục tiêu thúc đẩy làm giàu; mâu thuẫn đòi hỏi tham gia cạnh tranh để đạt mục tiêu làm giàu với ý muốn hạn chế cạnh tranh nhằm tránh nguy cơ phân hoá giàu nghèo trong xã hội, mâu thuẫn trong dựa vào cạnh tranh để kích phát động lực hoạt động xã hội với nhu cầu đảm bảo sự điều hoà, dung hợp trong xã hội, mâu thuẫn của việc nâng cao hiệu suất với mục đích hoàn thành sứ mạng công trình xã hội [8].


Ông Diệp Tiểu Văn cũng cho rằng: “Tính khác biệt và độc lập trong hoạt động tư tưởng của người dân ngày nay đã nâng cao, ý thức tham gia vào hoạt động chính trị của người dân tăng trưởng hơn. Mong muốn được bảo đảm lợi ích của cá nhân mạnh mẽ hơn. Đồng thời cũng phản ánh mối ưu tư về tình trạng đạo đức xã hội xuống cấp được phản ánh qua tâm lý bất chấp luật lệ của cá nhân mỗi người dân, thông qua những hành động uy hiếp trật tự xã hội cùng những biểu hiện xuống dốc về tinh thần và tư tưởng” mặc kệ hết thảy” [9].


Trước thực tế xã hội đòi hỏi nhà nước Trung Quốc phải chú tâm xây dựng lại đạo đức xã hội làm nền tảng cho sự ổn định và tiếp tục phát triển của Trung Quốc nhằm thực thi ước vọng dân tộc Hán sẽ lãnh đạo thế giới trong thế kỷ 21. Các nhà lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đã thấy được nguy cơ và tích cực tìm biện pháp khắc phục. Họ dần ý thức được rằng giáo lý và tinh thần Phật Giáo có thể là chất liệu cần thiết để xây dựng lại nền tảng đạo đức, củng cố các mối quan hệ để xây dựng một xã hội hài hòa hơn ở Trung quốc. Chọn đạo lý Phật giáo làm chất liệu là vì so với các tôn giáo khác Phật giáo không có ý đồ chính trị dù cho số lượng tín đồ có lớn đến đâu chăng nữa. Phật giáo là tôn giáo hoà bình nhất trên thế giới, cho nên lý tưởng và quan niệm của Phật giáo đã bắt đầu được các nhà lãnh đạo Trung quốc muốn ứng dụng trong công cuộc xây dựng xã hội hài hòa.


Các nhà lãnh đạo cần nhận thức ra trong quá trình lịch sử lâu dài Phật giáo không có xung đột với chính trị, chỉ có những nhà chính trị lừa dối Phật giáo mà thôi, mặc dù vậy Phật giáo đồ tử bao lâu nay vẫn không có ý tưởng phản động chính trị. Phật giáo đồ như những nhân viên của một công ty chỉ biết làm và phục vụ, ai lên ai xuống là việc của hội đồng quản trị họ không để tâm đến.


Do vậy các nhà chính trị Trung quốc phải biết lợi dụng Phật giáo để duy trì trật tự ổn định xã hội, xây dựng lòng người, làm đẹp hơn nếp sống đạo đức, dạy người biết tri túc và biết giữ tròn bổn phận, hoàn thành trách nhiệm của mình với bản thân, gia đình và xã hội [10].


Nhà nước Trung quốc muốn kết hợp “tám vinh, tám nhục” được chủ tịch Hồ Cẩm Đào nêu ra tại hội nghị IV khóa XIV “chính hiệp” Trung Quốc tháng 3 năm 2006 là:


1.                   Yêu nước nồng nàn là vinh, nguy hại quốc gia là nhục


2.                   Phục vụ nhân dân là vinh, xa rời quần chúng là nhục


3.                   Ủng hộ khoa học là vinh, ngu si vô trí là nhục


4.                   Cần cù lao động là vinh, ăn không ngồi rồi là nhục


5.                   Đoàn kết hỗ trợ là vinh, hại người lợi mình là nhục


6.                   Thành thật giu tín là vinh, thấy lợi quên nghĩa là nhục


7.                   Tuân thủ pháp luật là vinh, bất tuân luật lệ là nhục


8.                   Gian khổ phấn đấu là vinh, hoang dâm xa xỉ là nhục


Với ‘Tân lục hòa’ được đề xướng bởi diễn đàn Phật Giáo Thế Giới lần đầu tiên được tổ chức ở Trung quốc với chủ để ‘Tâm tịnh quốc độ tịch, tâm an chúng sinh an, tâm bình thế giới bình’ là :


1.       Lòng người cần hoà thiện


2.       Gia đình cần hòa mục


3.       Nhân tế cần hòa thuận


4.       Xã hội cần hài hòa


5.       Nhân gian cần hòa mỹ


6.       Thế giới cần hòa bình


Như lời Cục truởng Cục Tôn giáo quốc vụ viện chính phủ Trung Quốc-Diệp Tiểu Văn khẳng định ‘Hấp thụ thành quả văn minh của nhân loại, mỗi người bắt đầu tự nội tâm của mình bỏ ác làm thiện, thanh tịch tự tâm, trong thì xây dựng xã hội hài hòa, ngoài thì cùng nhau kiến tạo thế giới hài hòa’ [11]


Dựa vào giáo lý Phật giáo để kiến tạo xã hội Trung Quốc hài hòa trong ý nghĩa nội hàm của ‘hòa’ là nhân tâm hòa thiện, gia đình hòa mục, xã hội hài hòa, thế giới hòa bình. Nền tảng của ‘hòa’ là hòa mà không đồng, bao dung hỗ tương, tìm cầu cái chung mà vẫn tôn trọng cái sai riêng biệt, để cùng sống, cùng tồn tại và phát triển. Cảnh giới của ‘hòa’ là mỗi người giữ vững cái đẹp riêng của mình, để làm đẹp cho người khác cùng đạt mục tiêu thiên hạ hòa mỹ mọi người cùng đẹp.


Xã hội ngày nay cần xây dựng cho được công nghệp hỗ trợ nông nghiệp, thành phố giúp đỡ nông thôn, con người trở về với thiên nhiên trong ý niệm ‘chấp nhận, tôn trọng, biết ơn và viên dung’ của Phật giáo. Giáo lý ‘Duyên khởi’ của Phật giáo cho rằng vũ trụ, vạn vật và con người dựa vào nhau, ý cứ nhau để cùng sinh tồn không thể tách biệt. Dựa vào nền tảng Giáo Lý Phật Giáo để xây dựng và xử lý tốt đẹp mối quan hệ giữa người và ta, làm cho mối quan hệ trong xã hội và cuộc sống được hài hoà trong ý thức quân bình và viên mãn là cảnh giới và trí tuệ tối cao của con người. Điều này đã được các nhà Lãnh Đạo Trung Quốc Ý thức rõ và cũng là sứ mạng hoằng pháp thiêng liêng của Phật Giáo Trung Quốc ngày nay.


Nhìn người lại nghĩ đến ta


Nghiên cứu chính sách tôn giáo của Trung Quốc để hiểu rõ hơn chính sách tôn giáo của Việt Nam. Bởi vì từ trước đến nay tất cả mọi đường hướng chính sách của nhà nước Việt Nam đều chịu ảnh hưởng bởi đường hướng của chính sách của Trung Quốc. Nay các nhà lãnh đạo của Trung Quốc đã chú trọng đến Phật Giáo liệu điều này có sẽ xảy ra ở Việt Nam không? Hiểu rõ đường lối chính sách mới có được tầm nhìn rộng hơn, mới hơn để lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam phát triển là điều rất cần thiết đối với các nhà lãnh đạo Phật giáo Việt Nam. Lấy ý kiến của Thượng Toạ Thích Viên Trì Phó chủ nhiệm thư viện Vật Phật Phật Giáo Trung Quốc đã nói trong lần đàm thoại tại Phật học Viện Trung Quốc Chùa Pháp Viên thủ đô Bắc Kinh là “Phật Giáo Việt Nam và Phật Giáo Trung Quốc cần quan hệ với nhau nhiều hơn nữa vì cùng một thể chế, cùng một chính sách tôn giáo, cùng một tư tưởng trị quốc những gì Phật giáo Việt Nam làm được là kinh nghiệm để giúp Phật Giáo Trung Quốc đấu tranh làm cho được và ngược lại”.


Sau đổi mới Trung Quốc đã vận dụng sự hài hoà giao lưu để dựa vào sức mạnh tài chính, kỹ thuật, học thuật, giáo dục của Phật Giáo Đài Loan và Phật Giáo Hoa Tông ở hải ngoại để khôi phục Phật Giáo Trung Quốc. Phật Giáo Việt Nam sẽ làm gì để hoà hợp và tranh thủ thành tựu của Phật Giáo Việt Nam ở hải ngoại để phát triển Phật Giáo Việt Nam?


Trung Quốc cải cách mở cửa trước Việt Nam mười năm những gì xã hội Trung Quốc đang đối mặt iệu có xảy ra ở Việt Nam không? Nếu có thì Phật Giáo Việt Nam cần chuẩn bị gì để tiếp nhận sứ mạng thiêng liêng đó trong thời đại mới. Thiết nghĩ, chúng ta cần làm cho được là phải tiến bộ để khẳng định mình và tồn tại phát triển trong hoàn cảnh mới. Muốn tiến bộ, chúng ta phải biết từ bỏ cái cũ, lỗi thời và không ngừng cải cách. Quyết định từ bỏ cái gì là cũ và lỗi thời cùng với việc không ngừng cải cách thế nào, đòi hỏi tăng gia Việt Nam phải có tầm nhìn mới, mở rộng nhận thức và tầm nhìn không bó buộc quá vào truyền thống. Song song đó là nội bộ Phật Giáo phải có nhận thức chung về nhu cầu tiến bộ và cải cách. Để thực hiện được nhu cầu tiến bộ và cải cách ngoài nhận thức chung và tầm nhìn mới chúng ta phải hoà hợp, hoà hợp từ trong mỗi chùa, hoà hợp giữa các chùa với nhau, hoà hợp giữa Phật giáo trong và ngoài nước. Vì chỉ có hoà hợp thì mới đoàn kết được nội bộ để tạo nên sức mạnh cách mạng trong Phật Giáo trước nhu cầu của thời đại mới.


Trong sự thay đổi không ngừng của xã hội Việt Nam, ở tương lai Phật Giáo Việt Nam sẽ được xã hội đặt nhiều kỳ vọng vào công cuộc hoằng pháp. Muốn gánh lấy trách nhiệm hoằng pháp trong thời đại tương lai. Kiến tạo “nhân gian Phật Giáo” ở Việt Nam Phật Giáo cần phải có tiến bộ, có cải cách, tạo nên nhận thức chung với tầm nhìn rộng hơn, hiện đại hơn trong Phật Giáo. Cũng những cố gắng giải quyết, khắc phục những nhân tố khó khăn của lịch sử để lại để hoà hợp, đoàn kết, xây dựng sức mạnh cho Phật Giáo trong mục tiêu đào tạo đội ngũ tăng già thật sự tinh thông ngũ minh. Có làm được như vậy mới có thể hy vọng đến sứ mạng hoằng pháp lợi sinh của Phật giáo Việt Nam tương lai. Nhược bằng không trong thời đại mới chắc sẽ không còn chỗ đứng cho Phật Giáo Việt Nam chung ta.


Tài liệu tham khảo


1. “Tạp chi Nghiên Cứu Á Châu” (Trung tâm nghiên cứu Á Châu thuộc Học Viện Chu Hải Hồng Kông”


2. Tuần Báo Á Châu


3. Minh Báo Hong Kong


4. www.xinhuanet.com


5. www. ettoday.com.tw


6. www.newsvote.bbc.co.ku


7. www.phoenixtv.com






[1] Đơn vị tính của Trung Quốc. Một ức bằng một trăm triệu



[2] Mười ức bằng một tỷ



[3] Một nhân dân tệ tương đương 2000 đồng tiền Việt Nam



[4] Hướng Tây: đầu tư vào Trung Quốc , vì Trung Quốc ở phía Tây của Đài Loan



[5] Hướng Nam: đầu tư vào các nước Đông Nam Á



[6] www.ettoday.com.tw



[7] Tuần báo Á Châu, số ngay 30/4/2006, trang 27.