Trang chủ Nghiên cứu Triết học Phật là gì? (phần một)

Phật là gì? (phần một)

114

Một học tăng hỏi: “Phật là gì?”


Thiền sư Triệu Châu trả lời: “Phật là Phật”.


Vị tăng: “Thế nào là Đạo?”


Triệu Châu: “Đạo là Đạo.”


Vị tăng: “Thế còn Thiền?”


Triệu Châu: “Thiền là Thiền.”


Chân lý không thể được nói ra bằng lời, thế nhưng ta cũng không thể im lặng về nó. Chân lý không thể nói ra vì lời nói tự nó không đầy đủ. Bạn cũng không thể im lặng về nó, vì im lặng tự nó cũng không đầy đủ. Lời nói là vọng động, đúng vậy, bởi vì chúng chỉ tạo ra những khua động huyên náo mà chẳng nói lên được điều gì. Im lặng chỉ là sự vắng mặt tiếng động, thế nhưng nếu mặt tích cực của tiếng động đã không nói lên được điều gì thì mặt tiêu cực của nó –im lặng- làm sao có thể nói lên cái gì được? Nếu mặt tích cực đã bất lực thì mặt tiêu cực làm sao lại có đủ khả năng?


Cái khía cạnh thứ hai này cần phải được hiểu một cách thấu đáo, bởi vì đã có không biết bao nhiêu trường phái, bao nhiêu triết gia cho rằng chân lý không thể được nói ra và họ chọn sự im lặng. Thế nhưng im lặng cũng chẳng nói lên được điều gì. Im lặng chỉ có thể cho thấy một điều rằng, ngôn ngữ không đầy đủ, vậy thôi. Và im lặng cũng thế. Thế nhưng đôi khi nó lại tạo ra nguy hiểm: Im lặng có thể là sự ngu dốt hoàn toàn. Phải cần đến rất nhiều ngôn từ mới có thể tạo ra được một kẻ nguy hiểm –một con vẹt lặp lại sách vở, một nhà học giả, một vị giáo sư chẳng hạn. Tuy nhiên im lặng lại có thể tạo ra nhiều tên đại bịp. Không thiếu gì những người tịnh khẩu, chẳng hề nói năng gì cả và thiên hạ cứ lầm tưởng rằng y ta đã chứng ngộ rồi, vì y ta im lặng.


Một lần –lâu lắm rồi- có một anh chàng tìm đến tôi và tự xưng là “Baba Muktananda Paramhansa”. Tôi hỏi y ta vài điều căn bản và y hoàn toàn im lặng, cứ như một ông thánh, đã chứng ngộ.


Cũng ngày hôm đó tôi có việc phải đi đến một thành phố khác nên bảo y: “Bây giờ ông phải đi với tôi và trong suốt ba ngày phải hoàn toàn tịnh khẩu như thế. Để rồi xem.” Tôi trao cho y chiếc y vàng, và y là người hành giả học trò đầu tiên của tôi, một hành giả giả hiệu, bịp bợm. Tôi bảo y: “Trong ba ngày này ông sẽ là Baba Chuktananda Paramhansa.”


– “Chuktananda? Chưa hề nghe đến cái tên ấy bao giờ.”


– “Tôi cũng chưa hề nghe đến bao giờ. Nó chỉ mới thoáng qua trong ý nghĩ của tôi vào lúc này thôi. “Chuka” có nghĩa là người đã trả sạch nghiệp. Bạn đã được giải phóng, hoàn toàn tự do. Công việc của bạn ở thế gian này đã hoàn tất.”


– “Rồi tôi sẽ phải làm gì đây?”


– “Chẳng làm gì cả. Cứ việc ngồi yên một chỗ cho tôi. Và im lặng. Tất cả những gì cần tôi sẽ tự làm lấy. Nếu có ai hỏi câu gì, ông có thể ra điệu bộ. Hoặc có thể nhắm mắt lại. Hoặc có thể nhìn lên trời, nhìn xuống đất, làm những gì mà ông cảm thấy có vẻ coi được. Nhưng nhớ là đừng có thốt ra một lời nào.”


Y làm theo đúng lời tôi bảo, và trong suốt ba ngày cả cái thành phố kia đều kính cẩn thờ lạy y. Vào buổi tối khi được phép nói chuyện với tôi –vì mọi người đã về hết. Y ôm lấy chân tôi và bảo, “Tôn giả, ngài đang làm cái gì vậy? Tôi cảm thấy vô cùng bối rối khi tất cả mọi người đều đến kính cẩn sờ vào chân tôi. Biết bao nhiêu là người! Chuyện gì không ổn đã xảy ra với họ? Làm sao mà ngài có thể xử lý được?”


Một khi mà người ta được nghe rằng y đã chứng ngộ và bây giờ tịnh khẩu luôn -thế là đủ để cho người ta  tin rồi. Thiên hạ thường xuẩn động như thế. Nếu không bị gạt gẫm bằng lời thì cũng bị gạt gẫm bằng im lặng –cách này hay cách khác thôi.


Hãy nghe một giai thoại về Thiền sau đây.


Một ông tăng tự gọi mình là “Vô Ngôn Đại Sư”. Thật ra đây là một trò gian dối vì ông tăng này chẳng hề hiểu biết một chút mô tê gì về giáo lý nhà Phật cả. Để làm ăn với cái trò Thiền bịp này ông ta có hai ông tăng thuộc loại mồm mép phụ tá làm “thông dịch viên” để trả lời những câu hỏi thay mình; dĩ nhiên ông ta luôn luôn im lặng để chứng tỏ cho mọi người thấy mình là một “thiền sư vô ngôn” thứ thiệt.


Một hôm có một vị du tăng nổi tiếng nghe danh liền tìm đến vấn đạo, chẳng may gặp vào lúc cả hai ông phụ tá đều đi vắng. Vị khách tăng hỏi: “Thưa Đại sư, Phật là gì?” Bối rối vì không thể nào trả lời được câu hỏi, “Thiền sư Vô Ngôn” đảo mắt nhìn bốn phương tám hướng một cách tuyệt vọng để tìm kiếm hai ông phụ tá.


Tuy nhiên đối với hành động này, vị du tăng có vẻ như đã thoả mãn với câu hỏi thứ nhất, liền nêu tiếp câu hỏi thứ hai: “Thưa ngài, thế còn Pháp là gì?” Dĩ nhiên là ông tăng giả này chẳng biết đường nào mà trả lời thế nên cứ hết nhìn lên trời, đến nhìn xuống đất may ra trời đất có thể cứu ông ta vào lúc này được chăng?


Tuy nhiên vị du tăng lại tỏ ra hài lòng và nêu câu hỏi tiếp: “Thế còn Thiền là gì?”


Đến đây thì “Thiền sư Vô Ngôn” hoàn toàn tuyệt vọng, nhắm nghiền đôi mắt lại.


Vị du tăng liền nêu câu hỏi cuối cùng: “Còn thế nào là sự gia hộ?”


Không còn biết trả lời thế nào, Đại sư Vô Ngôn tuyệt vọng duỗi hết cả đôi tay của mình về hướng vị du tăng hàm ý chịu thua.


Thế nhưng vị du tăng thì tỏ ra rất mực thoả mãn, giã từ ông “Đại sư” và lên đường tiếp tục cuộc hành trình của mình.


Giữa đường thì ông ta gặp hai vị tăng phụ tá trở về và rất mực thích thú kể lại câu chuyện mình vừa được một bậc giác ngộ như Thiền sư Vô Ngôn điểm đạo cho như sau: “Tôi hỏi ngài Phật là gì. Lập tức ngài quay mặt nhìn về phương đông rồi phương tây, hàm ý rằng chúng sanh cứ chạy đông chạy tây đi tìm Phật ở khắp mọi nơi mà thực ra Phật không bao giờ có mặt ở những nơi đó cả.


Thế rồi tôi hỏi ngài Pháp là gì. Để trả lời câu hỏi này ngài hết nhìn trời rồi lại nhìn xuống đất, hàm ý rằng chân Pháp là hoàn toàn bình đẳng, không hề có sự phân biệt cao hay thấp, tịnh hay bất tịnh.


Để trả lời câu hỏi Thiền là gì của tôi, ngài chỉ làm một việc đơn giản là nhắm mắt lại không nói gì cả. Đó chính là những gì mà cổ đức thường dạy:


‘Nếu một người có thể nhắm mắt và ngủ một giấc thật ngon


ở tận nơi chốn thâm sơn cùng cốc


đó mới quả thực là một bậc đại tăng’


Cuối cùng để trả lời cho câu hỏi “Thế nào là gia hộ”, ngài đã duỗi đôi cánh tay và chìa hai bàn tay của mình ra trước mặt tôi. Điều này có nghĩa là ông ta đang duỗi cánh tay cứu độ của mình ra để hướng dẫn chúng sanh với tất cả sự gia bị của ông ta. Ôi, thật là một bậc thiền sư hoàn toàn đạt ngộ! Lời dạy của ngài cao thâm biết chừng nào!”


Khi hai ông tăng phụ tá vừa về tới chùa liền bị ‘Đại Sư Vô Ngôn’ mắng cho một trận nên thân: “Các người trốn chui trốn nhủi đi đâu hết vậy? Cách đây không lâu có một lão du tăng đến đây chất vấn làm ta muốn đứng tim luôn, chẳng biết đường đâu mà trả lời!”


Điều tương tự như thế đã xảy đến với Baba Chuktananda Paramhansa. Người ta không ngừng đến tham vấn y, nhưng y chỉ ngồi đó yên lặng, hoặc nhìn đó nhìn đây, hoặc nhìn lên trời xuống đất, hoặc nhắm nghiền đôi mắt lại và tôi chỉ có việc “thông dịch” lại những hành động của y. Trong suốt ba ngày đó thiên hạ đều xem Chuktananda như là một ông thánh bậc nhất, còn tôi chỉ là một nhân vật thứ yếu, một “tên thông dịch của thượng đế” không hơn không kém. Tất cả mọi người đều cảm thấy an lạc như được  thấm nhuần cơn mưa pháp ban xuống từ Chuktananda.


Người đời thuờng xuẩn động như thế! Hoặc là người ta cứ bám chặt vào ngôn từ, chữ nghĩa hoặc là người ta bám vào điều ngược lại, vô ngôn. Thế nhưng chân lý không ở nơi lời nói cũng như trong lặng im. Chân lý là sự siêu việt, thăng hoa của nhị nguyên tính. Im lặng chỉ là một bộ phận trong trò chơi nhị nguyên của tâm. Tâm không phải chỉ thuần lời, hãy nhớ như thế. Giữa hai lời luôn luôn có một khoảng cách nhỏ, ở đó tâm hoàn toàn vắng lặng. Tâm bao gồm cả hai –ngôn từ và yên lặng giao thoa. Mỗi lời đều được tiếp nối bởi một khoảng lặng im, và mỗi lặng yên đều được tiếp nối bởi lời.


Khi bạn đang suy tưởng, một niệm đến và kế đó là một cách quảng, bằng không niệm sẽ trùng lặp lên nhau tạo nên sự mơ hồ lớn -quảng cách vì thế là một cần thiết. Rồi tiếp theo là một niệm khác. Điều này chẳng khác gì bạn đứng ở bên lề đường nhìn lưu lượng xe cộ lưu thông. Cứ một chiếc xe chạy qua rồi đến một khoảng cách chạy qua! Bạn không nhìn thấy cái khoảng cách này vì bạn không thể nào nhìn thấy được. Cứ một chiếc xe chạy qua rồi đến một khoảng cách chạy qua và rồi một chiếc xe khác. Nếu không có khoảng cách này thì sẽ có sự đụng chạm giữa hai chiếc xe và tai nạn xảy ra. Khoảng cách luôn hiện hữu ở đó, là một bộ phận quan trọng không kém gì xe cộ trên tuyến lưu thông. Cũng giống y như vậy đối với tâm. Những ngôn từ, tiếng động và cái được gọi là yên lặng, cả hai đều là những thành phần của tâm.


Có một thứ yên lặng khác mà tâm không can dự vào. Cái yên lặng đó không phải là sự vắng mặt của tiếng động mà là sự có mặt của cái không thể hiểu biết bằng tri kiến –nó mang một phẩm chất hoàn toàn khác biệt: không phải là sự vắng mặt của tiếng ồn mà là sự có mặt của Thượng Đế, của tổng thể. Cái im lặng này không phải là một thứ im lặng chết mà rất mực sống động, nó rung động dạt dào, tràn đầy phỉ lạc, tưới tẩm đời với cơn mưa hạnh phúc, khơi mạch nguồn yêu thương tuôn chảy. Bạn có thể nhận ra sự khác biệt này.


Khi một người lặng im trong cái ý nghĩa không gây ra tiếng động, như một sự rút lui thì đó là một sự trì trệ, ứ đọng, chung quanh y như bao phủ một bầu khí ngái ngủ, u mê, chết lịm. Chẳng có gì toát ra vẻ tinh anh của một con người. Bạn có thể tìm thấy những loại người này rất nhiều nơi ở Ấn Độ, những paramhansa. Trở thành một ông thánh giả hiệu thì chẳng có gì khó khăn. Bạn không phải tốn nhiều công sức. Ngay cả chỉ việc ngồi yên tịnh khẩu –ít ra là vào ban ngày- cũng đủ rồi. Khỏi cấn phải hạ thủ công phu gì cả, chỉ là một việc nhỏ thôi mà.


Im lặng trong cái ý nghĩa vắng mặt, rút lui là một sự trì đọng; im lặng trong sự có mặt của Thiêng Liêng, của Thượng Đế, Chân Lý, của Đạo hay bất cứ tên gọi tương tự nào mà bạn muốn, mang một phẩm chất hoàn toàn khác biệt. Đây là một im lặng nở hoa, những đoá hoa thiên hình vạn trạng, những đóa hoa toả ngát mùi hương. Nó luôn luôn tươi tắn trẻ trung; nó không bao giờ trì trệ mang mùi tử khí. Đó không phải là sự im lặng của nghĩa trang mà là nơi đời sống đâm chồi, đâm chồi trong tĩnh lặng.


Thế nên hãy ghi nhớ điều khác biệt này: Lời không thể nói lên được chân lý và cái được gọi là im lặng cũng thế. Cái im lặng của bạn cũng chính là bạn. Cái mặt bằng của lời và im lặng chẳng khác gì nhau –chúng cũng đều ở chung trên cùng một mặt bằng.


Chân lý chỉ được nhận ra khi bạn chuyển hoá, biến dạng cái mặt bằng sinh thể của mình, khi bạn đạt đến một loại ý thức mới, một sự tĩnh thức mới.


Chúng ta đang tiếp tục chuyển động trên cùng một mặt bằng. Có lúc chúng ta chơi trò ngôn ngữ, có lúc chúng ta chơi trò im lặng. Đôi lúc chúng ta chơi trò thế gian, đôi lúc chúng ta chơi trò thoát tục. Có lúc thì lăng xăng giữa chợ, có lúc lại chạy đến chùa, đến nhà thờ -nhưng cái mặt bằng cũng giống nhau thôi. Chúng ta không hề di chuyển một li tấc nào cả. Cái tu viện và cái chợ đời của bạn cả hai đều cùng chung một cõi thế gian.


Bạn đang sống trên một mặt bằng. Trừ phi cái mặt bằng này chuyển động đến một cao độ khác, bằng không bạn có thể làm bất cứ điều gì mình muốn nhưng sẽ chẳng có gì thay đổi. Một con người sân hận có thể nguyện cầu nhưng những nguyện cầu của y bắt nguồn từ sân hận; một con người sân hận có thể yêu thương, nhưng sự yêu thương của y cũng tràn đầy sân hận. Một con người sân hận có thể làm nhiều việc, thế nhưng bất cứ nơi đâu,  bất cứ chuyện gì mà y làm đếu có bóng dáng của lòng sân hận –có thể nó hiện ra một cách hiển nhiên có thể không, vậy thôi. Một con người bạo động có thể cố gắng để hành xử bất bạo động. Thế nhưng trong cái bất bạo động của y vẫn có mặt của bạo động. Y sẽ là một người bất bạo động rất mực bạo động. Y sẽ là người mang tinh thần rất mực tiến công vào lãnh vực này; y sẽ luôn bị ám ảnh bởi sự bất bạo động.


Hãy nhớ rằng, vấn đề không phải là thay đổi từ thái cực này sang một thái cực khác trên cùng một mặt bằng. Vấn đề là thay đổi từ một mặt bằng này sang một mặt bằng khác.


Mấy năm trước đây, vị khoa trưởng phân khoa Triết học Đại học Cambridge quyết định ra đề thi cuối khoá võn vẹn chỉ có một câu hỏi ngắn bắt buộc như sau:


“Đây có phải là một câu hỏi không?”


Trước sự ngạc nhiên của mọi người, một thí sinh đứng dậy nạp bài chỉ hai phút sau khi cuộc thi khởi sự.


Khi kết quả cuộc thi được công bố, thí sinh này được chấm đỗ đầu. Bài thi của y cũng chỉ võn vẹn một câu ngắn gọn: “Nếu đây là một câu hỏi, thì đây cũng là một câu trả lời.”


Vâng, đó là câu trả lời đúng đắn nhất –cùng chung trên một mặt bằng. Thế nhưng cả câu hỏi không phải là một câu hỏi lẫn câu trả lời cũng không phải là một câu trả lời. Đó là những gì mà chúng ta đang làm. Thế nên hãy rất mực thận trọng. Con người thường bị vướng vào một thái cực này hay một thái cực khác.


Vâng, chân lý không thể nói ra bằng lời nhưng cũng không thể nói ra bằng im lặng. Thế thì chúng ta phải nên làm gì đây?


Thiền có một lối tiếp cận rất độc đáo, rất đặc biệt về chuyện này. Nó dùng lời không nghĩa -sử dụng ngôn từ không hàm chứa một ý nghĩa nào cả. Nó sử dụng ngôn từ mà lẽ ra không nên dùng như vậy, trong một cách thế hoàn toàn phi lý.


Một học tăng hỏi: “Phật là gì?”


Thiền sư Triệu Châu trả lời: “Phật là Phật”.


Đây là phép lặp thừa, bạn không nói ra điều gì mới. Một người hỏi: “Phật là gì?” Và bạn trả lời: “Phật là Phật”. Bạn chẳng thêm thắt gì vào mà chỉ đơn giản lặp lại.


Ngôn ngữ là dùng để thêm thắt, giải nghĩa, để đề xuất  cái gì đó, làm cho nó rõ ràng sáng tỏ hơn, giúp cho người nghe qua một cách thế nào đó. Đằng này, bạn chẳng hề giúp đỡ gì cả! Bạn quăng trả câu hỏi lại cho chính người hỏi. Y hỏi: “Phật là gì?” và bạn trả lời: “Phật là Phật”. Bạn đang làm gì vậy? Bạn đã kích động toàn bộ cái tiến trình của tâm thức. Trong một khoảnh khắc, người hỏi sẽ bị choáng váng –làm cái gì bây giờ đây? Nếu bạn trả lời bằng một nội dung có ý nghĩa … thế là tiến trình suy nghĩ khởi sự, y bắt đầu suy gẫm về câu trả lời. Một câu trả lời với nội dung khẳng định thường dẫn đến suy nghĩ. Y có thể suy nghĩ về những điều mà bạn đã nói ra. Nhưng nếu bạn im lặng … y có thể đoán mò và lại khởi sự suy nghĩ. Y sẽ nghĩ rằng, “Không biết ông này im lặng là có ý gì đây?” Thực ra sự im lặng của bạn làm cho y tốn nhiều công sức để phỏng đoán hơn là bạn nói ra lời. Khi bạn nói ra một điều gì đó, ít nhất là bạn cũng đã chỉ ra một cái hướng nhất định. Còn nếu bạn im lặng không nói gì hết, cả muôn hướng đều mở ra. Y có thể chạy đi khắp nẻo và suy nghĩ lung tung những gì mà y muốn -bạn cho y sự tự do. Bằng cách này hay cách khác, bạn đã tạo điều kiện để y suy nghĩ, và cái tâm của y bắt đầu chạy lăng xăng như chiếc thoi dệt vải.


Ngài Triệu Châu muốn nói gì khi trả lời, “Phật là Phật”? Ông ta chỉ làm một điều đơn giản là kích động bạn. Một cú đánh dứt điểm. Ông ta không giúp đỡ, tạo điều kiện cho bạn suy nghĩ nữa. Một cú “sốc” cao độ … trong một khoảnh khắc, tất cả đều dừng lại. Trong cái khoảng khắc ngưng đọng đó là hoát nhiên đạt ngộ. Cái khoảnh khắc ngưng đọng này mang một ý nghĩa rất mực lớn lao.


Nếu bạn tham vấn những triết gia, họ sẽ trả lời, “Đây là một sự lặp thừa, đây không phải là một câu trả lời.” Vâng, đó không phải là một câu trả lời. Đó chỉ là phép lập thừa, nó không thể giúp bạn điều gì cả.


Tuy nhiên kỹ thuật này phải được hiểu thấu đáo. Ngài Triệu Châu đang làm cái gì vậy? Ông ta sáng tạo ra một kỹ thuật độc đáo. Sau ông ta, không biết bao nhiêu vị Thiền sư đã áp dụng kỹ thuật này một cách tuyệt diệu và rất nhiều người đã không ngừng cải tiến nó.


Một vị Thiền sư khi được hỏi: “Phật là gì?”


Ông ta hét lên, “Hãy nhìn xem! Cây tùng cây bá ngoài sân kia.”


Bây giờ thì lại càng tuyệt chiêu hơn. Khi bạn trả lời, “Phật là Phật”, vẫn còn cái khả năng là người kia đang tiếp tục suy nghĩ theo cái kiểu cách mà y đã từng suy nghĩ trước đây. Cũng có thể là y đang nghĩ rằng bạn không biết gì cả, hoặc giả y cho rằng, “Vâng, đúng rồi, Phật là Phật.” Có thể là y chẳng hề mảy may bị kích động.


Thế nhưng khi vị Thiền sư la lên,  “Nhìn xem! Cây tùng cây bá ngoài sân kia!” Điều này hoàn toàn chẳng liên hệ gì đến câu hỏi cả. Ông ta đã hoàn toàn chặt đứt dòng suy nghĩ của bạn. Ông ta đã lay động bạn ra khỏi giấc ngủ dài, cho dù chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, thế nhưng thoát ra khỏi cơn mê ngủ trong một chớp mắt cũng đủ để cho thị kiến bùng vỡ. Và trong cái thị kiến này một cái gì đó đã xảy ra –cái mặt bằng của bạn đã hoàn toàn thay đổi. Bạn không còn di chuyển trên cùng một mặt bằng trước đây, bạn đã nhảy tỏm vào một mặt bằng khác, một chiều kích khác.


Thiền sư Triệu Châu là người đã sáng tạo ra kỹ thuật kích động, không sử dụng ngôn ngữ theo lối đời thường mà như là một trò chơi qua đó ngôn ngữ không còn là sức đẩy để cho người ta suy nghĩ, cũng không dùng đến im lặng để người ta phải đoán mò. Dùng đến ngôn ngữ, nhưng mà trong cung cách hoàn toàn vô nghĩa, không chứa đựng một ý nghĩa nào –như một đồ vật.


Những vị Thiền sư về sau đã tiếp tục cải tiến kỹ thuật này. Nếu bạn hỏi một vị Thiền sư, “Phật là gì?” Có thể bạn sẽ được ăn một cái tát! Cung cách trả lời này lại càng tuyệt vời hơn là “Nhìn xem! Cây tùng cây bá ngoài sân kia!” Ông ta đã nhảy xổ lên bạn. Ông ta có thể tạo nên tình huống bất ngờ. Bạn không hề chờ đợi điều này sẽ xảy ra khi bạn nhận một cái tát đích đáng.


Những kỹ thuật này là gì? Đâu là ý nghĩa của chúng? Thoạt nhìn thì có vẻ rất hung bạo, bạo động, mọi rợ, thiếu văn minh. Nhưng thực ra không phải thế. Tất cả nỗ lực của vị Thiền sư là tạo nên một khoảng trống, không còn bị sức thu hút chi phối nào trong cái tâm thế gian lăng xăng của bạn, đẩy bạn đến một nơi chốn nào đó vượt ra khỏi cái chiều kích mà bạn đang sống.


Định Thượng Tọa hỏi Thiền sư Lâm Tế về yếu tính của giáo lý Phật đà, Lâm Tế liền bước ngay xuống pháp toà, túm lấy ngực áo của ông ta và giáng cho một cái tát, xong đẩy đi. Định Thượng Tọa đứng đó, ngây người sửng sốt.


Một vị tăng đi qua trông thấy liền bảo, “Định Thượng Tọa, Còn chờ gì mà không đảnh lễ?” Câu nói này đã làm vị tăng tỉnh người và trong khi sửa soạn cúi mình đảnh lễ, ông ta hoát nhiên đạt ngộ.


Chuyện gì đã xảy ra? Một cuộc trao đổi rất mực lạ thường. Một học tăng hỏi Thiền sư Lâm Tế “Yếu tính của giáo lý Phật đà là gì?” và rồi nhận lãnh một cái tát trước mặt đám đông -những đồ đệ của ngài Lâm Tế. Ông ta không hề chờ đợi điều này xảy ra. Thật quá đổi bất ngờ, nhưng tuyệt vời là ở chỗ đó. Khi chuyện gì xảy ra theo như dự kiến, tâm của bạn cứ tiếp tục suy nghĩ theo một lối mòn.


Bây giờ nếu vị học tăng này đến gặp Thiền sư Lâm Tế, lặp lại câu hỏi này một lần nữa và nhận lãnh một cái tát, sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra. Ông ta đã chờ đợi chuyện đó. Thế nhưng một vị đại Thiền sư như Lâm Tế hay Triệu Châu sẽ không bao giờ tát bạn một lần thứ hai, ông ta sẽ dùng một cách khác. Có thể là ông ta sẽ qùy xuống đảnh lễ và sờ chân bạn.


Một vị Thiền sư luôn luôn có sẵn những đòn bất ngờ, bởi vì nếu bạn biết được câu trả lời của ông ta, đó sẽ không còn là câu trả lời nữa; một khi biết trước chuyện gì sẽ xảy đến, tâm của bạn lại bắt đầu xoay quanh vấn đề với cùng một kiểu cách cũ -bởi vì nó đã có kinh nghiệm rồi. Cái tâm chỉ có thể bị kích động và bứng ra khỏi cơn mê bởi một điều gì đó tuyệt đối bất ngờ. Đó là kỹ thuật: tạo đột biến. Sự đột biến rất mực hữu hiệu. Cái bình thường giữ bạn ở nguyên vị nhưng sự đột biến lay động bạn ra khỏi cơn mê.


Tuy nhiên ngay cả cái tát cũng chưa tạo đủ sức đẩy. Cái tát đột ngột của ngài Lâm Tế có thể làm cho vị học tăng đứng chết điếng một chỗ, có thể làm cho y kinh hoàng, kích động. Tuy nhiên vẫn chưa đủ làm cho y ra khỏi cơn mê, y vẫn còn bám cứng vào cái mặt bằng cũ. Cái tát này có thể làm cho y nổi giận, có thể gợi cho y cái ý nghĩ tìm cách trả miếng. Thế rồi trong cái đám đông kia -một người nào đó, chắc chắn đã đạt ngộ- lên tiếng, “Còn chờ gì mà không đảnh lễ?”  Bây giờ lại thêm một đột biến khác nữa. Có ai đó đang đánh bạn, tát bạn và bạn bây giờ phải qùy xuống để đãnh lễ y!


Thế nhưng cái người lên tiếng mách nước, “Còn chờ gì mà không đảnh lễ?” là một người đã có cái nhìn tuệ giác. Ông ta muốn nói rằng, “Ông Thầy đã rãi lòng từ vô lượng đến ngươi. Không có lý do gì để ông ta phải làm một việc quá sức như vậy -bước xuống pháp tòa, túm lấy cổ áo đánh ngươi, tát ngươi. Đâu có nhu cầu để làm một chuyện như vậy! Chỉ do lòng từ mà ông ta đã làm một việc quá sức như thế đối với ngươi, còn ngươi thì sao lại đang đứng chết trân một chỗ như một tên đần? Tối thiểu là ngươi cũng phải biết qùy xuống đảnh lễ người. Tối thiểu là ngươi cũng biết bày tỏ lòng biết ơn!”


Đây quả là điều bất ngờ hơn nữa – có ai đó đang đánh đập bạn và bạn phải trân trọng cảm ơn y. Tuy nhiên vị học tăng này đã hiểu. Chắc hẵn ngay khoảnh khắc đó ông ta đã nhìn thẳng vào ngài Lâm Tế -thấy được cái ánh mắt từ bi kia, cái lòng yêu thương vô hạn toả ra từ cái bóng dáng kia –chính trong cái khoảnh khắc đó ông ta nhìn thấy được một vị Phật đang đứng trước mặt mình, cái nhân dáng giác ngộ. Chỉ trong một thoáng nhìn, một tiếng động dội vao tâm thức, cả một khung cửa đột nhiên rộng mở. Vâng, y đã hiểu ra: “Cái đánh này không phải phát sinh từ lòng giận dữ, gây hấn. Ông ta không phải là kẻ thù của mình mà là người bạn thiết thân. Cái đánh này phát xuất từ tâm từ bi vô hạn.”


Một khi cái nhìn này chiếu dọi vào tâm thức, y qùy xuống đảnh lễ. Trong cái lạy sâu sắc này, y hoát nhiên đạt ngộ.


Thiền đã mang đến thế gian này cái kỹ thuật tạo đột biến đưa đến giác ngộ. Trọng điểm của nó là: làm bất cứ điều gì để tạo ra đột biến, giữ chặt bạn lại ngay trong cái khoảnh khắc đột biến đó để bạn không thể vận dụng những kinh nghiệm của quá khứ, quá khứ là hoàn toàn vô nghĩa và bạn cũng không thể suy đoán này nọ. Kinh nghiệm quá khứ sẽ không góp phần đưa ra lời giải đáp nào, trí nhớ, ký ức hoàn toàn bất lực ở đây –đó là ý nghĩa của điều mà tôi gọi là “sự đột biến”- khi bạn không thể moi ra từ ký ức của mình lời giải đáp “tại sao?”


Tại sao ngài Triệu Châu đã  trả lời như thế khi một người hỏi: “Phật là gì?” -một câu hỏi rất có ý nghĩa, rất mực có ý nghĩa là đằng khác- Ông ta đã nêu lên ba câu hỏi mà ai cũng thấy là rất phong phú đáng được hỏi. Thứ nhất:


“Phật là gì?”


Đây cũng là một mục tiêu, mục tiêu tối hậu của đời sống: đạt thành giác ngộ, vươn tới cực điểm của tự do, hoàn toàn liễu ngộ, tuệ giác bừng sáng, thoát vòng sanh tử. Ông ta đã vấn đạo bằng cách đặt vấn đề về mục tiêu:


“Phật là gì?”


Và câu hỏi thứ hai:


“Đạo là gì?”


Đạo có nghĩa là con đường. Trước tiên là mục tiêu, kế đến là con đường để đạt đến mục tiêu. Và câu hỏi thứ ba:


“Thiền là gì?”


Thiền có nghĩa là phương pháp. Phương pháp, con đường và mục tiêu -chỉ có thế. Ba câu hỏi này là ba câu hỏi thích đáng được đặt ra bởi một người thông minh. Toàn bộ tôn giáo chẳng là gì khác hơn ngoài lời giải đáp cho ba câu hỏi này: Mục tiêu, con đường và phương pháp.


Phương pháp đưa bạn đến đạo lộ và đạo lộ là con đường dẫn đến mục tiêu. Phương pháp giúp bạn bước đi vững vàng trên đạo lộ hướng đến mục tiêu. Đây là toàn bộ tính chất khoa học của tôn giáo. Một cách tóm tắt, tôn giáo có thể được xác định qua ba phạm trù: phương pháp, đạo lộ và mục tiêu. Vị học tăng đã nêu ra ba câu hỏi thích đáng nói trên nhưng đã nhận được những câu trả lời chẳng ăn nhập gì với câu hỏi chút nào.


“Phật là gì?”


Và Triệu Châu trả lời: “Phật là Phật!”


Ông ta không hề trả lời câu hỏi của bạn. Ông ta đã quăng trả bạn lại với chính mình. Ông ta muốn nói lên một điều rằng, bằng cách định nghĩa một từ này bằng một từ khác là cả một chuổi dài bất tận. Hãy cố gắng để lãnh hội điều này.


Bạn không thể nào đi giải thích một điều không biết này bằng một cái không biết khác … phải vậy không? Cả hai đều chẳng khác gì nhau… Chẳng hạn như nếu ngài Triệu Châu trả lời rằng, “Phật là một đấng giác ngộ”, điều này chẳng giải quyết được vấn nạn. Bởi vì người kia chắc sẽ vẫn còn thắc mắc, “Thế nào là giác ngộ?” Và rồi chữ nghĩa cứ tiếp tục chạy lòng vòng nhưng vấn đề vẫn không hề được giải quyết. Người kia vẫn sẽ cứ thắc mắc, “Cái đó là gì?” Bạn sẽ tiếp tục đi giải thích từ khái niệm A cho đến khái niệm XYZ, nhưng vẫn chẳng giải thích được điều gì cả. Chữ nghĩa này dẫn đến chữ nghĩa khác nhưng tất cả đều mù mờ như tự ban đầu. Đó là cái chuỗi dài bất tận của chữ nghĩa.


Đó là tất cả những gì mà chúng ta đang vướng mắc vào -một chuỗi dài nghịch hành bất tận. Bởi vì chúng ta không thể đi đến điểm tận cùng của câu hỏi, đó là lý do tại sao chúng ta không hề nhận thức được vấn đề. Có ai đó hỏi bạn, “Tình yêu là gì?” và bạn cắm cúi trả lời –mà không hề nhận ra một sự thực rằng những ngôn từ bạn dùng để giải thích tự nó đã không có khả năng giải thích. Thế thì trọng điểm của vấn đề nằm ở đâu?


Nếu tôi hỏi bạn: “Anh A ở chỗ nào?” Và bạn trả lời, “Ở kế nhà anh B.” Điều này sẽ làm tôi bối rối như lúc ban đầu bởi vì tôi cũng không hề biết nhà anh B ở đâu. Thế rồi tôi hỏi, “Nhưng anh B ở đâu?” Và bạn cho tôi hay, “Ở gân nhà anh C, họ là láng giếng với nhau.” Bạn đã trả lời câu hỏi của tôi, thế nhưng tôi không hề biết anh C đang ở đâu! Thế là cái vòng lẩn quẩn độc hại kia cứ được tiếp tục. Bạn trả lời sự mù mờ của tôi bằng cách tạo ra một mù mờ khác. Nó sẽ chẳng hề giúp ích gì cả. Có ích lợi gì đâu? Tôi không biết A, không biết B và cũng không biết C. Thay vì giúp đỡ tôi bạn lại đẩy tôi vào một đống rối nùi!


Ngay lúc ban đầu chỉ có một câu hỏi duy nhất: “Anh A đang ở đâu?” Bây giờ thì đẻ ra hàng ngàn câu hỏi khác: “Anh B đang ở đâu? Anh C đang ở đâu? vv và vv…” Bạn chỉ làm tôi thêm mù mờ, bố rối. Bạn chẳng giúp được tôi điều gì cả. Thế nên khi Triệu Châu trả lời rằng: “Phật là Phật”. Ông ta đã cố gắng đưa bạn ra khỏi cơn hỏa mù. Trong khi bạn đang mù mờ bối rối, ông ta khẳng định “A là A.” Ông ta hàm ý điều gì đây? Đâu là chỉ hướng của ông ta?


Ngài Triệu Châu hàm ý rằng, “Phật chỉ có thể nhận biết mà không thể được giải thích. Ông ta muốn nói rằng, “Tôi không thể nói Phật là gì nhưng tôi có thể chỉ cho bạn làm thế nào để đạt thành Phật quả. Phật là Phật. Khi nào trở thành Phật rồi bạn sẽ biết. Không có phương cách nào khác. Nếu bạn không phải là một vị Phật, tất cả những gì mà bạn nghĩ rằng mình biết về Phật đều không xác đúng -chẳng bao giờ.”


Thế nên phép lặp thừa có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Nó có thể vô nghĩa nhưng lại rất mực ý nghĩa.  Điều này cần phải được hiểu thấu đáo. Khi ngài Triệu Châu trả lời rằng, “Phật là Phật”, ông ta không hề giúp bạn đừng nghĩ đến Phật nữa mà đơn giản là ông ta đưa bạn đến một trạng thái dừng lại hoàn toàn. Ông ta muốn nói lên rằng, “Ngừng lại! Đừng có chạy theo ngôn từ chữ nghĩa nữa bởi vì ngôn từ này sẽ dẫn đến ngôn từ khác, không bao giờ chấm dứt.” Ngôn từ cũng chẳng khác gì người Ấn Độ -họ không bao giờ tin vào sự kiểm soát sinh sản. Tha hồ đẻ. Chữ nghĩa này cứ đẻ ra chữ nghĩa khác, và chữ nghĩa khác nữa, bất tận. Rồi không sớm thì muộn bạn sẽ rơi vào một đống rối nùi, một mớ bòng bong chữ nghĩa, và rồi bạn quên bẳng đi câu hỏi đầu tiên!


Triết gia Bertrand Russel trong cuốn tự truyện của mình có viết rằng: “Lúc còn trẻ khi ghi danh học Triết ở trường Đại học, tôi đã mang cái ý tưởng rằng mình sẽ tìm ra tối thiểu một vài câu trả lời cho những vấn đề cơ bản của đời sống.” Ở vào tuổi chín mươi, Russel nhớ lại rằng ông ta đã sống trong môi trường Đại học, không phải chỉ như là một sinh viên mà còn là một giáo sư và là một triết gia nổi tiếng –Russel là một trong những triết gia hàng đầu của thế kỷ 20- cuối cùng đã thốt lên: “Chỉ có một điều duy nhất mà tôi có thể nói về triết lý, đó là: nó chẳng hề giải quyết được bất cứ một vấn đề đon thuần nào mà chỉ tạo ra thêm những vấn đề mới, thay vì cái cũ –càng phức tạp và bí hiểm hơn.”


Khi một người tìm đến triết học, y đến với những câu hỏi rất mực hồn nhiên. Triết học chẳng hề mang lại lời giải đáp. Triết học chỉ giúp cho y những mánh khoé để trả lời. Y trở nên thành thạo hơn. Y đặt ra những vấn đề trong một cung cách đầy luận lý, thế thôi. Trải qua thời gian, triết học đã không hề giải quyết được một vấn nạn nhỏ nào. Đó là hàm  ý của Triệu Châu khi nói rằng: “Phật là Phật. Đừng có đi vào triết lý vớ vẩn nửa!” –thông điệp của ông ta là như vậy. “Nếu tôi trả lời bạn rằng Phật là thế này thế nọ- cuộc hành trình của bạn sẽ được bắt đầu –và sẽ không bao giờ chấm dứt. Bạn sẽ trở thành một đại triết gia. Tốt hơn là nên dừng lại ở bước đầu tiên! Đừng bước vào con đường đó! Chuyện này sẽ không ngừng kéo theo chuyện nọ. Và sau một cuộc hành trình dài lê thê, bạn lại quay trở về với khởi điểm đầu tiên. Thế nên điều tốt nhất là đừng có bước vào cuộc hành trình vô ích này. Hãy dừng lại, ngay bây giờ và tại đây!”  Đó là ý nghĩa câu trả lời của ngài Triệu Châu: “Phật là Phật. Đạo là Đạo. Thiền là Thiền”. Ông ta muốn nói lên một điều: “Chấm dứt những bàn cãi vô nghĩa. Chấm dứt trò chơi ngôn ngữ!” Nhưng ông ta đã không trả lời bằng sự lặng im.


Dĩ nhiên là ông ta có thể im lặng để nói lên một điều đơn giản: “Chấm dứt trò chơi ngôn ngữ; hãy lặng im.” Tuy nhiên điều đó cũng không phải là trọng điểm -bởi vì bạn có thể giữ im lặng, nhưng ở bên trong, cái tâm của bạn vẫn không ngừng lên tiếng. Thực ra khi bạn ngồi yên lặng, cái tâm của bạn còn sôi nổi nói năng hơn bất cứ lúc nào, bởi vì khi chuyện trò trao đổi với thiên hạ, bạn không ngừng xả nguồn năng lượng của mình ra, còn khi yên lặng, cái tâm của bạn không ngừng tích tụ năng lượng, nổi sóng ở bên trong.


Chỉ ngồi im lặng ù lì, sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra. Cỏ cây, đất đá đều im lặng –chúng đâu có hề biết đến chân lý là gì. Chúng ta cần đến một thứ im lặng khác -thứ im lặng phát khởi từ nhận thức về sự vô ích cùng khía cạnh tiêu cực của ngôn ngữ- đó mới là im lặng thực sự. Một khi lời nói và lặng im đều được buông bỏ, lúc đó một thứ yên lặng hoàn toàn mới mẻ khởi dậy: tịch tĩnh –yên lặng mà sống động, mà rung lên cùng với nhịp đời tuôn chảy. Một thứ yên lặng chan hoà lời ca, điệu múa, không phải là thứ yên lặng của nghĩa trang. Yên lặng như một khúc hoà âm vang lừng tiết tấu thiên nhạc. Yên lặng nhưng nói lên cả vạn lời -không bằng ngôn từ nhưng hàm chứa tất cả nội dung. Đó là thứ yên lặng sáng tạo, chứ không phải là sự vắng mặt của tiếng động. Hãy cố gắng để hiểu điều này.


Bạn có thể đi đến bác sĩ để thăm bệnh. Ông ta có thể tiến hành cuộc kiểm tra sức khỏe của bạn -một cuộc kiểm tra toàn diện, và bảo rằng bạn không bệnh hoạn gì cả; tuy nhiên điều này không có nghĩa là bạn khoẻ mạnh. Không đau ốm và khoẻ mạnh là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Không đau ốm chỉ là mặt tiêu cực, nó chỉ nói lên một điều đơn giản rằng bạn không bị ho lao, không bị ung thư, không bị bệnh này bệnh nọ, rằng huyết áp của bạn bình thường, tim mạch của bạn hoạt động điều hoà –tóm lại mọi chuyện đều ok. Bạn không mang một chứng bệnh nào. Tuy nhiên không mang một chứng bệnh nào không có nghĩa là bạn có sức khoẻ! Sức khoẻ là một chuyện hoàn toàn khác biệt. Sức khoẻ là một hiện tượng dương tính, là sự có mặt của một cái gì đó. Sức khoẻ mang biểu hiện dưong tính như là bệnh hoạn.


Bệnh hoạn là sự có mặt của ho lao, của ung thư. Sức khoẻ cũng thế, là sự có mặt – một kinh nghiệm mới mẻ của hạnh phúc. Đó là oà vở niềm vui, bạn như đang nở hoa hạnh phúc. Sức khoẻ vì thế không phải là sự vắng mặt của bệnh hoạn; mà tự nó là một cái gì đó toát ra chiều hướng tích cực.


Sự tĩnh lặng thực sự cũng giống y như thế -không phải là sự vắng mặt của tiếng ồn. Đó là lý do tại sao Triệu Châu đã không thể im lặng, ông ta đã phải thốt ra một điều gì đó, nhưng lời nói chỉ như là một biểu hiện.


Tôi muốn lập lại điều này một lần nữa, rằng: Chân lý không thể được nói ra bằng lời, nhưng có thể được biểu hiện. Những lời nói mà ngài Triệu Châu sử dụng đến không mang một ý nghĩa nào; nó không được dùng như ngôn ngữ đời thường mà như là những tiếng thét đập vào tâm thức người khác, làm cho tâm ngưng lại ngay tức khắc. Chúng biểu hiện lên một điều gì đó, như muốn nói rằng: “Đừng có hỏi nữa. Hãy để tín ngưỡng là một thôi thúc tìm cầu chứ không phải là câu hỏi. Hãy để tín ngưỡng là kinh nghiệm thân chứng của bạn chứ không phải là một lời giải thích. Nếu bạn thực sự muốn biết Phật là gì, thì ta đang có mặt ở đây này! Hãy nhìn kỹ đi! Phật là Phật. Nhìn ngay vào ta. Nhìn ngay vào chính ngươi –ngươi cũng chính là một vị Phật.”


Ở Ấn Độ có ba truyền thống tôn giáo. Một là truyền thống Ấn Độ giáo, truyền thống cổ điển nhất. Truyền thống Ấn Độ giáo cho rằng Thượng Đế hiện xuống –đó là ý nghĩa của chữ avatar- Thượng Đế đến từ cõi trên. Cũng giống như Thượng Đế hiện xuống trong Giêsu khi ông ta được thánh Gioan Báptít rửa tội trên dòng sông Jordan; Thượng Đế hiện xuống nhu một con chim câu trắng, thể nhập vào Giêsu. Ngài đến từ cõi trên –avatar. Đây là truyền thống lâu đời nhất.


Truyền thống thứ hai cũng cổ điển không kém –có thể có một vài điều còn cổ xưa hơn – đó là Kỳ Na giáo. Truyền thống này quan niệm hoàn toàn khác biệt, cho rằng Thượng Đế không phải đến từ cõi trên mà là sự đi lên từ cõi thấp, một sự lớn dậy, trưởng thành. Trong Kỳ Na giáo không hề có khái niệm avatar. Thượng Đế không phải ở trên trời rơi xuống mà là lớn dậy từ thế gian, như một cái cây vươn thẳng lên bầu trời –teerthankar. Con người trở thành Thượng Đế do trưởng thành, tiến hoá, từng bước từ thấp đến cao. Một ngày nào đó con người sẽ trở thành Thượng Đế khi y vươn tới điểm rốt ráo, tận cùng.


Trong Ấn Độ giáo, một ngày nào đó Thượng Đế sẽ trở thành người khi ông ta xuống đến điểm tận cùng.


Phật giáo là truyền thống thứ ba, và theo tôi, là truyền thống trội vượt hơn hẵn cả hai truyền thống kia. Phật giáo có hướng tiếp cận mới, cho rằng mỗi con người đều là một vị Phật; Thượng Đế chẳng đi lên mà cũng chẳng đi xuống; mỗi người đều là Phật sẽ thành, vấn đề chỉ là thực chứng. Phật đã có sẵn ở đó rồi! Các bạn là những vị Phật! Có thể vì vô minh che lấp bạn đã quên đi, nhưng mà chẳng sao cả, điều đó sẽ không làm cho bạn trở thành phi-Phật. Các bạn là những Thượng Đế! Bạn có thể đã quên đi chính bạn là ai, đúng vậy, nhưng không phải vì quên đi mà bạn trở thành một con người nào khác -bạn vẫn chính là bạn như tự thuở nào.


Thế nên trong Phật giáo có một cái từ rất mực ý nghĩa: Buddhanusmriti -niệm Phật, tức là nhớ đến cái Phật tánh trong mỗi con người. Bạn không phải chạy đi đâu cả, không đi lên mà cũng không đi xuống. Phật giáo rất mực khoa học ở chỗ này. Có chỗ nào đâu để đi lên –lên và xuống chỉ là những cái từ tương đối- thế nên không có chuyện lên hay xuống. Và cũng không có cả chỗ nào gọi là thấp để từ đó trưởng thành vươn thẳng lên cao. Chúng ta đã ở sẵn ngay chỗ đó! Ở ngay tại điểm rốt ráo, đã đến đích. Chúng ta cứ không ngừng cho rằng mình chưa đạt đến nên cứ tìm cách vươn đến một nơi nào đó. Vấn đề chỉ là  thực chứng, là nhận ra …


Thế nên Thiền cứ nhất định đánh thức bạn dậy bằng những cú “sốc”. Chứ còn phải làm gì bây giờ? –đang là một ông Phật mà lại cứ cho rằng mình không phải là Phật! Thay vì đem đủ thứ ngôn từ ra để giải thích cho y, vận dụng đến triết học, thần học, tốt nhất là nện cho y một trận đòn đích đáng để cho y tỉnh ra! Cái khoảnh khắc tỉnh thức đó chính là đại ngộ.


Người đời thường cứ mơ mơ hồ hồ tại sao lại có chuyện hoát nhiên đại ngộ xảy ra nhanh đến như vậy. Sở dĩ có chuyện nhanh như thế là bởi vì bạn đã ở sẵn trong tình trạng đó rồi. Đây không phải là vấn đề tuần tự nhi tiến, đòi hỏi thời gian, nỗ lực; bạn không cần đến bất cứ một cố gắng nào cả. Nó chẳng khác gì chuyện một người đang mê ngủ, quên bẳng đi cả tên tuổi của mình –như là bạn quên hết tất cả mọi chuyện trong lúc ngủ say. Thế rồi có người đến la lên: “Ram! Làm cái gì ở đây vậy? Thức dậy đi -mặt trời lên mấy sào rồi!” Và y mở mắt ra. Y lại trở lại với cái anh chàng Ram ngày nào. Chỉ mới một khoảnh khắc trước đây, y đang bơi lội trong một ngàn lẻ một thứ giấc mơ -nổi trôi, chuyển động trong trăm phương ngàn hướng, mộng mơ những chuyện hoang đường, rồi bỗng nhiên một tiếng la lớn: “Ram! Thức dậy đi. Trưa trờ trưa trật rồi!” và Ram mở mắt ra.


Hoát nhiên đại ngộ cũng giống y như thế.


Chuyện kể rằng Hoàng đế Thái Tổ nhà Đường có lần đã hỏi một đạo sĩ đang ẩn tu học đạo trên núi cao:


“Ong luôn lánh mình ở trong chốn thâm sơn cùng cốc. Có gì ở những nơi đó vậy?”


Nhà đạo sĩ đã trả lời vị Hoàng đế bằng một bài thơ:


Có gì trong chốn núi non này?


Chỉ có ngàn năm mây trắng bay


Muốn thưởng thức xin mời ngài đến


Tôi không thể mang chúng về đây


Có một vài điều mà không một ai có thể mang đến cho bạn. Bạn phải tự đi đến đó. Tôi không thể nói với bạn về những nét đẹp của những đám mây trắng trên Hy Mã Lạp Sơn, những đỉnh núi trinh nguyên, những chiếc hồ trong suốt như pha lê, tất cả đều chỉ là ngôn từ. Chúng có thể khơi động những mơ mộng nào đó ở trong bạn, nhưng chẳng hề có một ý nghĩa nào cả. Bạn phải đích thân đi đến đó, trên chót vót non cao, nằm dưới những đám mây trắng kia…


Tôi có nghe một câu chuyện về một nhà thơ, một nhà thơ lớn, đang tha thẩn dọc theo bải biển. Người vợ thân yêu của ông ta ngã bệnh nặng, đang nằm ở nhà thương và ông ta đã phải thức suốt đêm ngồi canh bên giường bệnh. Buổi sáng nay khi thấy người vợ đang thiu thiu ngủ, ông ta liền thả bộ ra bải biển để thưởng thức một chút không khí trong lành.


Đó là một buổi sáng tuyệt vời, tươi đẹp. Mặt trời soi bóng biển xanh. Hương vị của biển cả, cái không khí trong lành của buổi ban mai, tiếng sóng vỗ rì rào … Ông ta ngây ngất đắm mình trong không khí đó và nảy ra cái ý tưởng mang một chút tươi đẹp của buổi ban mai này về cho người vợ yêu dấu đang hấp hối trên giường bệnh. “Chắc chắn là nàng sẽ rất hạnh phúc. Đây là một món quà ý nghĩa. Nàng sẽ từ giã cõi đời này không bao lâu nữa.”


Ông ta đã làm một chuyện rất mực điên rồ -mà chỉ có những nhà thơ mới làm như thế, là chạy về nhà mang một chiếc hộp xinh xắn ra bờ biển, mở ra, xong khép lại và khoá kỹ. Vâng, trong chiếc hộp này là ánh mặt trời nhảy múa reo vui, là gió biển, là hương vị của đại đương, là tiếng chim ca trong không khí trong lành. Ông ta thu lấy tất cả vào chiếc hộp và hối hả trở lại dưỡng đường. Ông ta rất mực thích thú với cái ý tưởng đem về tặng vợ cả một mảnh buổi sáng tươi đẹp.


Ông ta đánh thức vợ dậy, đặt chiếc hôp bên cạnh nàng và mở ra… Chẳng có gì ở trong đó cả -không ánh mặt trời, không mùi hương biển, không tiếng chim ca… Chỉ là một chiếc hộp trống rỗng.


Tất cả ngôn từ cũng đều giống y như thế … trống rỗng. Cái từ “Thượng Đế” cũng trống rỗng như là một chiếc hộp không. Cái từ “Phật” cũng trống rỗng y như vậy. Đó là những gì mà Triệu Châu đã cố gắng nói ra, “Phật là Phật”. Bải biễn là bải biển -bạn phải đích thân đi đến đó. Núi là núi, bạn phải đi đến tận nơi. Bạn không thể mua chúng ở ngoài chợ. Không có ai có thể giao những món hàng này cho bạn. Những vị Đạo sư cùng lắm chỉ có thể tạo ra cơn khát, thế thôi; ông ta có thể tạo ra những giấc mơ trong mắt bạn để bạn lên đường khỏi sự cuộc hành trình. Thế nhưng không ai có thể cho bạn cái đó.


Có một câu chuyện ngụ ngôn cổ điển của Phật giáo về người cùng tử trong Kinh Pháp Hoa như thế này:


Đứa con trai của ông trưởng giả bỏ nhà đi hoang từ lúc còn bé và trở thành một tên lang thang vô gia cư. Lúc này hầu như y đã quên đi chuyện rằng mình đã từng có một mái nhà. Thế rồi một hôm do xui khiến làm sao y lại đi ngang qua trước cổng cái dinh cơ bề thế của ông trưởng giả. Dĩ nhiên y không hề nhận ra rằng mình đã từng được sinh ra tại đây. Y đứng đó, trước cổng nhà, cảm thương cho thân phận nghèo hèn rách rưới của mình. Tuy nhiên ông trưởng giả đã nhận ra đứa con thất lạc của mình ngay tức khắc, cho dù đã bao nhiêu năm xa cách, ông liền cho gọi y vào nhà, thế nhưng tên ăn mày đã hoảng sợ không dám đặt chân vào một nơi cao sang như vậy.


Không những thế, tên ăn mày còn tìm cách chạy trốn. Ông trưởng giả -tức cha ruột của y rất mực lo lắng rằng mình sẽ mất đứa con thân yêu một lần nữa. “Làm thế nào để thuyết phục y vào nhà? Làm thế nào để thuyết phục cho  biết rằng đây chính là ngôi nhà của y? Không có gì để phải sợ hãi -rằng ta không ai khác hơn là cha ruột của ngươi?”


Ông trưởng giả đã khôn ngoan cho người đầy tớ ra dụ rằng: “Ở đây đang cần một người giúp việc. Ngươi có muốn nhận công việc này không?”


Tên ăn mày vui mừng đón nhận công việc. Với việc làm hèn mọn được giao phó, y đã được đón nhận trở lại với công việc rất mực khiêm nhượng lúc ban đầu. Lần hồi y được cất nhắc đảm trách những công việc quan trọng hơn và cuối cùng nhận ra thân phận của mình, lúc đó y trở thành chủ nhân của ngôi nhà, sở hữu sự giàu có và tất cả tài sản của cha y.


Đó là toàn bộ công việc của một vị Đạo sư -tạo ra nỗi khát khao đi tìm chân lý và rồi giúp bạn từng bước một nhận ra rằng chân lý không nằm ờ một nơi chốn xa xôi nào cả mà ở ngay trong chính bạn. Tuy nhiên bạn sẽ không sẵn sàng nhận ra nó một cách trực tiếp. Bạn sẽ rất mực sợ hãi như tên cùng tử kia. Nếu như ông trưởng giả bảo y ngay lập tức rằng, “Ngươi là con trai của ta”, chắc là y sẽ bỏ chạy mất. Có thể lúc đó y sẽ nghĩ rằng, “Chắc là đang có một âm mưu, người ta đang dương lên một cái bẩy gì đây.” Làm sao mà y lại có thể là con trai của một ông trưởng giả được? Y chỉ là một tên ăn mày nghèo hèn rách rưới.


Vị thầy thực sự là người rất mực thông minh. Ông ta thuyết phục từng bước một. Trên con đường đi đến Phật quả bạn phải được chăm sóc, thuyết phục một cách từ từ. Vị thầy sẽ điểm đạo bạn, bạn trở thành một hành giả, một tỳ kheo rồi bằng cách này hay cách khác, lần hồi bạn vươn đến cách cảnh giới tiểu ngộ, đại ngộ, tam ma địa. Bạn được thăng tiến dần, cho đến một ngày bạn nhận ra rằng tất cả chỉ là những phương tiện thiện xảo, chẳng khác gì những trò chơi. Cái điểm rốt ráo tận cùng mà bạn vươn tới thực ra bạn vẫn luôn ở sẵn đó rồi. Tuy nhiên vị Đạo sư đã phải làm đủ mội phương cách để dẫn dụ bạn.


Vị Đạo sư không hề mang đến cho bạn một cái gì cả. Không có gì để cho. Cái mà ông ta cho bạn, bạn đã có sẵn. Thay vì nói rằng vị Đạo sư ban cho bạn một cái gì đó, thực ra ông ta ông ta không cho mà chỉ lấy đi ở bạn rất nhiều thứ. Ông ta đã lấy đi những thứ bạn không hề có nhưng cứ nghĩ rằng mình đang có, ông ta trao tặng bạn những gì bạn đang có nhưng cứ nghĩ là mình không có.


Tất cả chức năng của vị Đạo sư chỉ là làm công việc đưa bạn trở về lại mái nhà xưa –mà thực ra bạn chưa hề rời nửa bước.


Thiền gia có một câu rất nổi tiếng mà bạn cần phải chiêm nghiệm. Đó là, khi chưa học Thiền, thấy núi là núi, sông là sông. Khi bước chân vào Thiền, thấy núi không còn là núi, thấy sông không còn là sông. Khi đã lãnh hội được yếu chỉ của Thiền, lại thấy núi là núi, sông là sông.


Khi một vị Thiền sư giảng giải điều này cho một trong những môn đệ của mình, người Thiền sinh kia đã thốt lên, “Ồ, nếu đúng như thế thì đâu có gì khác nhau giữa một phàm phu và một kẻ giác ngộ. Bởi vì khi chưa học Thiền, thấy núi là núi, thấy sông là sông. Khi bước chân vào Thiền, thấy núi không còn là núi, thấy sông không còn là sông. Khi đã lãnh hội được yếu chỉ của Thiền, trở về nhà, lại thấy núi là núi, sông là sông trở lại.”


Y đem điều này chất vấn thầy, “Bạch thầy, nếu quả đúng như vậy, thì đã không hề có sự khác nhau giữ kẻ phàm phu và bậc giác ngộ.”


Vị Thiền sư trả lời: “Không hề có sự khác nhau.”


Vâng, không hề có sự khác nhau, ngoại trừ một điều -rằng, bậc giác ngộ thấy không hề có sự khác biệt còn kẻ phàm phu thấy có sự khác biệt.


Có một người hỏi Phật, “Giác ngộ là gì?”


Phật trả lời: “Điều này chỉ hiện hữu trong tâm của những kẻ phàm phu.”


Một câu trả lời tuyệt diệu! Bạn hiếm khi gặp được một câu trả lời theo kiểu Kohinoor như thế: “Điều này chỉ hiện hữu trong tâm của những kẻ phàm phu.” Họ đã tạo ra cái ý niệm đó. Ngay tự ban đầu, họ cho rằng mình là người chưa giác ngộ và từ đó họ tạo ra cái lý tưởng về giác ngộ.


(Hết phần một, xem ti