Trang chủ Văn học Quan Âm Thị Kính và cách nghĩ của người Việt về người...

Quan Âm Thị Kính và cách nghĩ của người Việt về người phụ nữ Việt

372

Nhiều vấn đề thuộc nội dung và hình thức của tác phẩm cũng được giới nghiên cứu quan tâm khai thác kỹ. Song, người Việt đã nghĩ như thế nào về phụ nữ Việt Nam qua truyện này thì vẫn còn ít người đề cập.


Truyện thơ Nôm là một loại hình văn học đặc trưng, một di sản văn hoá phi vật thể có giá trị của dân tộc. Việc trả lời được câu hỏi: “Người Việt đã suy nghĩ như thế nào về phụ nữ Việt” qua truyện QÂTK sẽ giúp chúng ta hình dung được nhiều điều về văn học truyền thống, đặc biệt là nếp nghĩ và cung cách tư duy mang bản sắc văn hoá dân tộc.


Người Việt đã suy nghĩ như thế nào về phụ nữ Việt?


Trước khi vấn đề được mở ra, điều quan trọng là chúng ta cùng tìm hiểu những thông tin chung quanh tác phẩm này, để có được một cách nhìn bao quát hơn.


QÂTK là tác phẩm văn học thuộc thể loại truyện thơ Nôm, nên giá trị của nó, nói như nhà văn Võ Phiến: “Bỏ truyện bằng thơ ra, nền văn học bằng quốc âm của chúng ta trước đây sẽ nghèo đi quá nửa”. Ngoài chức năng giải trí lành mạnh, thể loại này còn có vai trò nuôi dưỡng, truyền bá đạo lý, văn hóa, lưu giữ ký ức cộng đồng. Về mặt ngôn ngữ và tư duy, truyện thơ Nôm là sự kết tinh của ngôn ngữ Việt, là bằng chứng chân thực, sinh động về nếp sống tư duy, cách nghĩ cảm của người Việt xưa về con người, xã hội và cuộc sống. Chính vì thế, sự xuất hiện của thể loại này được xem là sự đáp ứng một khát vọng lớn, một nhu cầu cấp thiết góp phần hoá giải áp lực Hán hoá, vốn được đặt ra một cách thường trực của người Việt. Ngày nay, truyện thơ Nôm là thể loại văn học thuộc về quá khứ. Nó là sản phẩm có lịch sử phát sinh và tồn tại gắn liền với nền văn học thính giác. Mà thời của nền văn học này đã bị vượt qua bởi nền văn học thị giác, khởi đầu của những năm 30 của thế kỷ trước. Nói cách khác, một thể loại văn học đã lùi xa bởi vì một cách đọc đã thay đổi.


Truyện QÂTK từ trước vẫn được lưu hành như một tác phẩm khuyết danh. Tuy nhiên, theo giáo sư Nguyễn Huệ Chi, đến nay có hai giả thiết khác nhau về tác giả của nó. Một là Nguyễn Cấp và hai là – người cùng thời với ông – Đỗ Trọng Dư (1786 – 1868). Bản in sớm nhất của QÂTK hiện còn là vào năm Tự Đức 21 (1868), dài 786 câu, thể lục bát. Vở chèo cùng tên là tác phẩm mô phỏng từ truyện Nôm này.


Phần mở đầu – giới thiệu nhân vật – trình bày một cách rõ ràng về quê quán, xuất thân và tuổi tác của Thị Kính, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Đặc biệt, lai lịch của Thị Kính lại được giới thiệu bằng nhãn quan tiền kiếp hậu kiếp của Phật giáo – một nét cá biệt chỉ có ở tác phẩm truyện Nôm này.


Tiền kiếp của Thị Kính là một đấng nam nhi, đã chín kiếp xuất gia tu hành từ thuở thiếu thời, vượt qua mọi cơn sóng nghịch cảnh, nhưng vẫn chưa thành Phật, và thuyền trần chưa neo được vào bến giác. Chỉ vì một niệm sai lầm: “Có chăng kiếp trước hoạ là. Kiếp này sợi chỉ trót đà buộc tay” mà phải bị thác sinh, trầm luân thêm một kiếp ở cõi người.


Cõi người là cõi khổ? Nhưng kiếp đọa đầy ấy không được làm lại thân trai, mà phải làm thân gái.


Phải chăng trong cách nghĩ về con người của tiền nhân, người phụ nữ trong cuộc đời thường có số phận thương tâm, nghiệt ngã?


Thân phận người phụ nữ trong quan niệm của dân gian là “mười hai bến nước”, trong con mắt của Hồ Xuân Hương là “ba chìm bảy nổi”, trong cách thấu hiểu của Đặng Trần Côn là “hồng nhân đa truân”. Bằng trái tim đồng cảm sâu sắc, Nguyễn Du đã nhận ra thân phận lẽ mọn, hẩm hiu của họ trước nam giới: “Chơi cho liễu chán hoa chê. Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời”. Và qua lời Thuý Kiều, Nguyễn Du đã than thở về cái thân phận chung, đáng thương tâm ấy của nữ giới:


Đau đớn thay phận đàn bà


Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.


Thị Kính được sinh ra trong cuộc đời đầy oan khổ, nên oan khổ cũng bao trùm lên thân phận của nàng như bóng với hình. Mặc dầu cũng là một trang tuyệt sắc giai nhân, đầy đủ nết na, đoan trang, trung hiếu, nhưng may mắn cuộc đời có bao giờ mỉm cười với nàng đâu. Chỉ vì thiện ý muốn cắt sợi râu mọc ngược trên cằm của chồng mà chịu hàm oan là kẻ có ý mưu sát chồng, tư tình bất chính, để rồi phải tủi phấn thẹn hồng, lỡ đường gia thất. Không ai ngoài Thị Kính, là người thấu hiểu sự hẩm hiu đáng buồn trong thân phận chính mình.


Vẻ chi một đoá hồng nhan


Cành hoa nở muộn, thời tàn mà thôi.


Như vậy, không riêng gì QÂTK, mà hầu như các tác phẩm văn học cổ điển nước ta đều đồng vọng một tiếng nói chung, một cách nhìn nhất quán về thân phận của người phụ nữ Việt: truân chuyển, nổi chìm, hồng nhan bạc mệnh. Nói như Chu Mạnh Trinh, thì ra “con tạo vốn thương yêu người tài sắc” là vậy!


Nỗi khổ người phụ nữ là tiêu biểu cho nỗi khổ của con người, kiếp người. Nếu truyện QÂTK là cách diễn đạt nghệ thuật cho một mệnh đề lớn được xác lập ngay từ hai câu mở đầu tác phẩm: “Nhân sinh thành Phật dễ đâu. Tu hành cứu khổ rồi sau mới thành”, thì chính Thị Kính là người đã diễm phúc được dân gian trao gởi sứ mệnh “thậm nan, hy hữu chi sự” ấy. Nữ giới có thân phận nhỏ bé hẩm hiu, nhưng chính họ lại là đối tượng được dân gian “chọn mặt gửi vàng” cho khát vọng cao đẹp của mình. Nguyễn Du đã hơn một lần lên tiếng ủng hộ quan điểm này. Mặc dù ông buồn bã nhận ra vai trò phụ thuộc vào nam giới của người phụ nữ, nhưng trong tâm tư của ông cũng không có nhiều lòng tin vào vai trò của giới mày râu trong việc san bằng những bất công của xã hội, để lập danh lập đức với đời. Vì thế, trong truyện Kiều, không có người đàn ông nào có đủ tư cách, tài hoa như nàng Kiều. Chu Mạnh Chinh trong Tổng vịnh truyện Kiều có lẽ đã nhận ra thâm ý này của Nguyễn Du khi viết: “Tay đàn bà mà lại có cơ quyền. Người thục nữ mà đủ đường hiếu nghĩa”.


Khi chọn nàng Thị Kính làm nhân vật trung tâm của tác phẩm, có lẽ dân gian đã nhận ra sự cao quý và vĩ đại ấy của người phụ nữ nơi Thị Kính: “Tu là cội phúc, tình là dây oan.


Cát ái từ thân, thoát ra khỏi sợi dây oan khổ của thân phận làm dâu, làm vợ, tưởng đâu oan trái từ nay đã rũ sạch nước cửa Không. Thế mà khi đã được vào sống trong chốn giải thoát ấy, oan khổ vẫn như gánh nặng, như kẻ vô hình, vẫn còn chạy theo mãi. Thị Kính – Kính Tâm đã bước từ nỗi oan này (kẻ có ý giết chồng) đến nỗi oan khác (người tu hành phạm vào sắc giới). Đau khổ và tủi nhục vô cùng, nhưng nàng vẫn đủ sức, âm thầm vượt qua tất cả.


Tư duy của người Việt trong tác phẩm cũng như trong cuộc đời, phụ nữ được mến phục không phải vì họ là phái yếu hay vì họ đẹp đến độ nghiêng nước đổ thành hay bởi họ tuân phục đạo “tam tòng”, mà họ được mến phục bởi sự sắc sảo, thông minh, có tấm lòng bao dung, đức hy sinh, nhẫn nhục trước nhiều nghịch cảnh của cuộc đời.


Thị Kính – Kính Tâm là đại diện tiêu biểu cho lòng bao dung, đức từ bi và hạnh nhẫn nhục rộng lớn của người phụ nữ.


“Nỗi oan Thị Kính” đã trở thành một thành ngữ trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của người Việt. Sự nhẫn nhục chịu oan của Thị Kính có thể được xem là thái độ phản kháng thụ động, tiêu cực. Thậm chí việc Thị Kính vì quá đau khổ trong đường tình, chán đời oan khổ nên vào chùa tu đã tạo nên sự hiểu nhầm về động cơ và lý tưởng xuất gia của giới tu sĩ Phật giáo. Người xưa xây dựng tác phẩm này đã có cách riêng để tôn vinh những vẻ đẹp nhân cách ở nhân vật của mình.


Nỗi oan thứ nhất là Thị Kính bị vu cáo có tư tình bất chính riêng, nên đã mưu toan giết chồng. Dẫu sự thực không phải như thế, và Thị Kính cũng đã ra sức bày tỏ, biện minh cho sự trong sạch thảo ngay của mình, nhưng cũng không thay đổi được định kiến của cha mẹ chồng. Nhưng với nỗi oan thứ hai, Thị Kính vốn là gái giả trai để tu hành lại bị vu oan cho phạm sắc giới với Thị Mầu thì rất trớ trêu. Thực ra nỗi oan này nặng hơn nỗi oan trước, nhưng muốn thanh minh thì bằng chứng cũng rất dễ dàng. Điều kỳ lạ là Kính Tâm chỉ lặng lẽ nhẫn nhục chịu oan mà không hề có một lời minh oan nào. Những dụng ý thâm sâu trong nghệ thuật và tư tưởng của người xưa vẫn chưa được giải mã. Và ý nghĩa của chữ Nhẫn như chính tác phẩm đã nói: chữ rằng nhẫn nhục nhiệm hoà, vẫn chưa được đánh giá hết ý nghĩa của nó.


Là người xuất gia nhưng Kính Tâm cũng là một phụ nữ. Và chính vì là người phụ nữ mà hơn ai hết Kính Tâm hiểu được những hạn chế, những ích kỷ nhỏ hẹp trong tâm hồn của những người cùng giới. Trước kia là mẹ chồng: “Sông sâu còn có kẻ dò. Lòng người ai dễ mà đo cho cùng.” (QÂTK), và bây giờ là Thị Mầu. Cuộc sống và tình cảm của Thị Mầu có những uẩn khúc riêng. Việc “không chồng mà có chửa” của Thị Mầu (của người phụ nữ nói chung) đối với đạo đức nghiệt ngã của xã hội thuở ấy là một tội trạng lớn. Hình phạt có thể là gọt tóc, bôi vôi rồi thả bè trôi sông. Vì vậy chúng ta có thể hiểu thêm, việc Thị Mầu đổ tội cho Kính Tâm, không đơn giản chỉ là hành động vu oan giá hoạ cho kẻ tu hành, mà nó thật ra còn là sự kêu cứu lòng từ cứu khổ nơi cửa Phật. Và đây là điều cao cả chỉ có ở Kính Tâm: là một người xuất gia, lại vốn là nữ giới, sự kết tinh của từ bi, trí tuệ và tư chất từ hai con người ấy là lý do để Kính Tâm sẵn sàng chịu oan để Thị Mầu bớt khổ. Nhẫn ở đây là nhẫn nhục nhiệm hoà, là nhẫn điều khó nhẫn, là hy sinh chính mình, chịu oan chịu khổ thay người khi cuộc đời đang còn tràn dâng bất công nghiệt ngã.


Việc Thị Mầu đem con bỏ trước cổng chùa là sự gửi gắm đúng địa chỉ. Tính hợp lý ở đây không đơn giản chỉ vì Thị Mầu thấy Kính Tâm mặc nhiên chịu oan nhận tội mà quan trọng hơn là Thị Mầu đã nhận ra được đức từ bi quảng đại ở bậc chân tu này.


Con ai bỏ chùa này


Nam mô Di Phật, con thầy thầy nuôi.


Đó là lời hát ru con. Trong truyện QÂTK, dân gian có cách nói khác:


Dù xây chín bậc phù đồ


Chẳng bằng làm phúc cứu cho một người.


Tổng số của lòng từ bi và tư chất làm mẹ là kết quả đủ để lý giải động cơ của hành động Kính Tâm, một lần nữa sẵn sàng nhận nuôi dưỡng đứa bé tội nghiệp ấy trước sự mỉa mai của miệng thế. Điều mà chính sư phụ của Kính Tâm không thể hiểu nổi. Sự nhẫn nhục tuỳ duyên ấy chính là đức cứu khổ độ sanh của một vị Bồ tát. Kính Tâm được siêu thăng làm Phật cũng chính là sự thuần phục trong đại hạnh này.


Kiểu kết thúc truyện QÂTK cũng là kiểu kết thúc có hậu mang tính truyền thống của các tác phẩm tự sự Việt Nam. Ở đó, một lần nữa dân gian tôn vinh công hạnh tu hành của Thị Kính- Kính Tâm: oan khiên được gội sạch, hiếu đạ được vuông tròn bằng sự viên mãn công hạnh tu tập của chính mình và sự hoá độ cha mẹ cùng siêu thăng Phật quốc. Người phụ nữ Việt Nam cũng một lần nữa được khẳng định vị trí xứng đáng của họ trong cuộc sống: người phụ nữ Việt Nam có vai trò quan trọng bởi vì họ là Đấng mang thiên chức che chở, bao bọc (mẹ), thương yêu, nuôi nấng (Bu, gần với bú mớm), đem lại sự sống (Đẻ) và nhất là họ mang tính chất phổ quát to lớn (Cái). Quan Âm Thị Kính chính là sự kết tinh những nét đẹp tinh tuý ấy của người phụ nữ Việt.


Nếu người Việt có những câu như: “Nhất vợ nhì trời”, “Nhà khó cậy vợ hiền, nước loạn nhờ tướng giỏi”,để thể hiện sự đề cao vai trò của phụ nữ, thì lại có những câu mang sắc thái khác hẳn như: “Đàn ông nông nổi giếng khơi. Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu”, “Một trăm ông chú không lo. Lo về một nỗi mụ o nỏ mồm”, hay những câu như “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “Phu xướng phụ tuỳ”… Đó không phải là sản phẩm của cách tư duy của người Việt về phụ nữ sao?


Nhưng có điều cần phân biệt, trong khi những câu ca dao, tục ngữ trên của người Việt là cách châm biếm những hạn chế của phụ nữ, thì những câu dưới chính là định kiến “trọng nam khinh nữ”, một sản phẩm của quá trìn Hán hoá.


Từ trong tâm thức, người Việt luôn dàn một không gian tôn trọng và đề cao vai trò người phụ nữ trong xã hội và cuộc sống. Truyện Nôm Quan Âm Thị Kính đã kế thừa và phát huy được rất nhiều những di sản văn hoá dân tộc, qua đó người Việt đã bảo lưu thành công, ký thác một cách chân thực, trọn vẹn cách nghĩ cảm về thế giới và con người. Đồng thời khẳng định, chính tâm thức mới là yếu tố làm nên bản sắc văn hoá Việt.


(1) Võ Phiến, Cái chết của một văn loại, nguyệt san Tân Văn, số 3, tháng 7-1968, tr.88.


(2) Xem mục Quan Âm tân truyện, tác giả Nguyễn Huệ Chi, Từ điển Văn học (bộ mới), NXB Thế Giới, Hà Nội, 2004, tr.1473.


(3) Nguyễn Du: Truyện Kiều.