Trang chủ PGVN Nhân vật Tiểu sử Đức Pháo chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam: Đại...

Tiểu sử Đức Pháo chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam: Đại lão Hoà thượng Thích Đức Nhuận

123

Đời Ngài từ buổi sơ tâm cho đến lúc hoá duyên đã mãn là tấm gương lung linh chiếu sáng trong công phu tu thân, hành đạo cho cả giới xuất gia lẫn tại gia; Ngài luôn lấy giới hạnh tinh nghiêm làm thân giáo để răn dạy, sạch tấn kẻ hậu lai; Ngài đã thể hiện tinh thần bi, trí, dũng, trong công hạnh vô ngã vị tha, tận lực chuyên tâm vào sự nghiệp hoằng dương chính pháp, phục vụ nhân gian.


 


Phật Giáo Việt Nam xin trân trọng ghi công đức cao cả của Ngài vào trang sử vẻ vang, sáng ngời của Đạo Phật.


 


I. THÂN THẾ


 


Đại lão Hoà thượng Thích Đức Nhuận, Pháp hiệu Thanh Thiệu, Pháp danh Đức Huy, thế danh Phạm Đức Hạp, sinh năm Đinh Dậu (1897), tại thôn Quần Phương, xã Hải Phương, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định (nay là tỉnh Nam Hà). Thân phụ là cụ Phạm Công Toán hiệu Thành Phủ; thân mẫu là cụ Lê Thị Vụ. Ngài là con thứ 6 trong gia đình có 8 anh chị em.


 


Sinh trưởng trong một gia đình nề nếp Nho phong, Ngài bắt đầu đi học từ năm 7 tuổi. Thân phụ Ngài vốn là một danh y Đông dược, được Sư Tổ Chùa Đồng Đắc (tỉnh Ninh Bình) mời sang để chế thuốc phong cứu giúp dân làng. Do được theo hầu thân phụ, dần dần Ngài mến mộ cảnh yên tịnh chốn Thiền môn. Năm 15 tuổi (Nhâm tý – 1912), một thời điểm chuyển mình thoát tục, Ngài nhận chân: cuộc đời là vô thường, thân người là giả tạm, nên Ngài xin phép song thân xuất gia đầu Phật.


 


Ngài sơ tâm cầu pháp với Sư Tổ Thích Thanh Nghĩa (thuộc dòng Tào Động, chùa Quảng Bá – Hà Nội) trụ trì chùa Đồng Đắc, xã Đồng Hướng, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.


 


Sau khi thế phát quy y, Ngài được nghiệp sư gởi đến chùa Thanh Nộn, huyện Kim Bảng, tỉnh Nam Hà, học Đạo với Sư Tổ Thích Thanh Ninh. Với đức hạnh khiêm cung, siêng năng, hiếu học, Ngài luôn được Sư Tổ thương yêu và kỳ vọng là pháp khí của tùng lâm.


 


Năm 20 tuổi (1917), xuân đạo lý đã đơm bông trí tuệ, tâm bồ đề thêm ngát toả giới hương, Ngài được tôn sư cho thụ giới Cụ Túc tại chùa Phúc Nhạc (Già Lê tự), tỉnh Ninh Bình. Giới đàn này gồm các bậc cao Tăng thạc đức như: Sư Tổ Thích Thanh Khiết làm Hoà thượng Đàn Đầu, Sư Tổ Thích Trung Định làm Yết Ma, Sư Tổ Thích Thanh Phúc làm Giáo Thọ, Sư Tổ Thích Khang Thượng, Sư Tổ Thích Thanh Nghĩa làm Tôn Chứng. Từ đây, Ngài thực sự dự vào hàng Tăng bảo với trọng trách: “Thượng cầu Phật đạo, hạ hoá quần sinh”.


 


Sau khi đắc pháp, Ngài tiếp tục hành cước, tham học ở các chốn Tổ lớn như: chốn Tổ Đào Xuyên (huyện Gia Lâm, Hà Nội) do Tổ Giám Thông Mệnh giảng dạy; chốn Tổ Bằng (huyện Thường Tín, Hà Tây) và chốn Tổ Sở (Đống Đa, Hà Nội) do Sư Tổ Phan Trung Thứ thuyết pháp. Trải qua bao năm tháng chuyên tâm tu học tại các chốn tổ này, Đức Pháp chủ trở thành một bậc đạo hạnh trong sáng; không những uyên thâm Phật học mà còn quán triệt cả Khổng giáo, Lão giáo, trở thành tiêu đích cho hàng Tăng, Ni, Phật tử ngưỡng mộ, quy tâm.


 


Năm 42 tuổi, nhằm mục đích vị tha, dấn thân trong đại nguyện cứu khổ, độ sinh, Ngài đã phát tâm thọ giới Bồ Tát, do Sư Tổ Thích Doãn Hài, viện chủ chùa Tế Xuyên (tỉnh Hà Nam) chứng đàn.


 


II. SỰ NGHIỆP


 


Năm 1940, sau khi nghiệp sư viên tịch, Ngài trở về thừa kế, trụ trì chùa Đồng Đắc. Phật sự đầu tiên được đặt ra trong tâm trí Ngài là: đào tạo tăng tài, tổ chức Giáo hội. Ngài liền thành lập 2 trường Phật học: một ở chùa Đồng Đắc (xã Đồng Hướng, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình) và một ở chùa Kỳ Lân (thôn Đại Hữu, xã Văn Bồng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình).


 


Ngài luôn được chư Tăng, Ni, phật tử cung thỉnh làm chủ hạ các trường Hạ như: Trường Hạ chùa Phúc Nhạc (Già Lê tự), trường Hạ chùa Đại Hữu, trường Hạ chùa Sơn Thuỷ (Non Nước), trường hạ chùa Lê Xá (huyện Gia Viễn), trường hạ chùa Bà Đá (Hà Nội) v.v… Ngài luôn nêu cao uy mãnh Thích hải Côn bằng, tiêu biểu cho ngôi vị Tùng lâm Pháp chủ.


 


Với đức độ tu hành, giới luật tinh nghiêm, khoảng năm 1950, Hội Phật giáo tỉnh Ninh Bình cung thỉnh Ngài giữ chức Giám luật Phật giáo tỉnh Ninh Bình để làm tiêu đích cho Tăng, Ni, Phật tử trên con đường tiến tu Tam vô lậu học.


 


Năm 1955, sau khi hoà bình lập lại, Ngài được mời lên Thủ đô Hà Nội để cùng Chư Tôn đức tổ chức Giáo Hội, hoằng dương Phật Pháp.


 


Trong thời gian này, Ngài được thỉnh về trụ trì chùa Tàu (Phổ Giác Tự), Đống Đa, Hà Nội. Từ ngôi chùa này, Ngài thường xuyên sang trụ sở Trung ương Hội – Chùa Quán Sứ – để làm việc. Về sau, do nhu cầu của Giáo Hội, Ngài đã ở tại chùa Quán Sứ, và sau đó một thời gian được bổ nhiệm ngôi vị trụ trì chùa Quán Sứ.


 


Năm 1956, ngài được bầu làm phó Ban Đại diện Phật giáo Thủ đô.


 


Năm 1957, Ngài là một trong những thành viên trong Đoàn Đại biểu Phật giáo Việt Nam đến yết kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh và Phó Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại phủ Chủ tịch.


 


Tháng 3 năm 1958, Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam (ở miền Bắc) thành lập, Ngài được bầu làm phó Hội trưởng. Ngài đảm nhiệm ngôi vị này liên tục qua bốn kỳ đại hội, cho tới năm 1979.


 


Năm 1969, Ngài về trụ trì Chùa Quảng Bá (Hoằng Ân tự, xã Quảng An, huyện Từ Liêm, Hà Nội). Cũng trong năm này, Hội Phật giáo Thống Nhất Việt Nam mở trường Tu học Phật pháp Trung Ương tại đây và thỉnh Ngài làm Hiệu trưởng. Đây là ngôi trường có tổ chức đầu tiên sau ngày miền Bắc giải phóng. Ngài trụ trì và giáo hoá nhân dân ở Quảng Bá hơn 20 năm trước khi về chùa Hoè Nhai.


Năm 1979, khi Hoà Thượng Thích Trí Độ, Hội trưởng Hội Phật giáo Thống Nhất Việt Nam thị tịch, Ngài là Quyền Hội trưởng cho đến năm 1981, khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam được thành lập.


 


Để có nơi an táng sắc thân tứ đại của Tăng, Ni toàn thành phố Hà Nội, năm 1980 Ngài đứng ra xin phép Nhà nước thành lập nghĩa trang tại chùa Huỳnh Cung, xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Cũng trong năm này, Ngài nhận lãnh Tổ đình Hồng Phúc (Hoè Nhai), chốn Tổ của Thiền Phái Tào Động và năm 1986 Ngài chính thức về đây trụ trì cho đến khi viên tịch.


 


Năm 1980, trong bối cảnh nước nhà hoàn toàn độc lập thống nhất; Tăng, Ni, Phật tử cả nước mong muốn thực hiện ý nguyện bao đời của các bậc tiền nhân là thống nhất, hoà hợp Phật giáo Việt Nam. Ban Vận động Thống nhất Phật Giáo Việt Nam ra đời trong thời điểm này và đã cung thỉnh Ngài làm Chứng minh Ban Vận động. Cũng trong năm này, Ngài vào lưu trú tại Tổ đình Vĩnh Nghiêm (thành phố Hồ Chí Minh) một năm để cùng với Ban Vận động Thống nhất Phật Giáo Việt Nam đi thăm hỏi, trao đổi, bàn bạc với chư vị Tôn túc lãnh đạo các giáo phái, hệ phái, hội đoàn Phật giáo tại các tỉnh phía Nam để thực hiện ý nguyện thống nhất Phật giáo.


 


Tháng 11/1981 Hội nghị đại biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam diễn ra tại chùa Quán sứ, thủ đô Hà Nội, để thành lập Giáo hội Phật Giáo Việt Nam. Trong Hội nghị, toàn thể đại biểu nhất tâm cung thỉnh Ngài đảm nhận ngôi vị Pháp chủ, nhưng Ngài từ chối cho đến 3 lần. Cuối cùng, với sự thành tâm tha thiết của Hội nghị, Ngài nhận lãnh ngôi vị Pháp chủ, nhưng yêu cầu Hội nghị chấp thuận Đề nghị của Ngài và đề đạt Đề nghị ấy lên Chính phủ. Toàn thể Hội nghị đều đứng lên trang nghiêm thọ lãnh Đề nghị của Ngài. Đề nghị ấy nhấn mạnh 3 vấn đề:


1. Trường phật học


2. Người thừa kế


3. Tín ngưỡng của tín đồ


 


Ngài dứt lời trong tiếng vỗ tay hân hoan bất tận của Hội nghị. Cố Đại lão Hoà thượng Thích Trí Thủ, Đệ nhất Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương GHPGVN lúc ấy, thay mặt Hội nghị, đứng lên thành tâm bái lĩnh Đề nghị của Đức Pháp chủ và hứa sẽ đưa vào Nghị quyết của Hội nghị để đệ trình lên Chính phủ. Đề nghị ấy được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lúc bấy giờ là cụ Phạm Văn Đồng hứa sẽ thực hiện.


 


Từ Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo (1981) cho đến Đại hội Phật giáo kỳ 3 (1992), Ngài luôn luôn được Tăng, Ni, Phật tử cả nước tín nhiệm, suy tôn đảm nhiệm ngôi vị Pháp chủ cho đến ngày Ngài thị tịch.


 


Ngoài Phật sự, Đức Pháp chủ còn tham gia các công tác từ thiện xã hội… Ngài được bầu làm Uỷ viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong nhiều khoá, Ngài được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập Hạng nhất.


 


Dù làm bất cứ việc gì, Ngài cũng chỉ cho đó là một phương tiện để hoằng dương Phật pháp.


 


Là một vị đại cao Tăng cống hiến trọn đời cho lý tưởng hoằng pháp lợi sinh, Ngài đã đóng góp nhiều công đức trong công cuộc chấn hưng, thống nhất và hoà hợp Phật giáo, góp phần đoàn kết và phụng sự dân tộc. Đức Pháp chủ là một vị Tôn Sư đã dày công dìu dắt hàng ngàn môn đồ đệ tử trong và ngoài nước, trong đó có nhiều vị Tăng, Ni, Cư sĩ đã trưởng thành, noi theo gương sáng của Ngài, bền vững đạo tâm, trang nghiêm Giáo hội.


 


Nay hạnh nguyện hoằng pháp, độ sinh đã viên mãn, thuận lẽ vô thường, Đức Pháp chủ thâu thần thị tịch vào lúc 5 giờ 5 phút ngày 11 tháng 11 năm Quý Dậu (23 tháng 12 năm 1993), trụ thế 97 năm, hạ lạp 77.


 


Xuất thế giới hạnh tinh nghiêm, nhập thế lợi lạc quần sinh, Đức Pháp chủ luôn khơi dòng trí tuệ Văn Thù, và thể hiện hạnh nguyện Phổ Hiền tốt đời đẹp Đạo. Nhờ đó, toàn thể Phật tử Việt Nam được thấm nhuần thâm ơn pháp nhũ và lượng cả từ bi của Ngài. Nay Ngài đã thâu thần thị tịch, toàn thể Tăng, Ni, Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước xin đê đầu kính lạy những bước chân giải thoát của bậc Xuất trần thượng sĩ, và nguyện noi theo gương sáng của Ngài trên con đường hoằng dương Phật pháp, lợi lạc quần sinh.


 


NAM MÔ VIỆT NAM PHẬT GIÁO GIÁO HỘI PHÁP CHỦ, KIM LIÊN THÁP, MA HA SA MÔN TỲ KHƯU BỒ TÁT GIỚI, PHÁP HUÝ THÍCH ĐỨC NHUẬN, PHÁP HIỆU THANH THIỆU, PHÁP DANH ĐỨC HUY, THẾ DANH PHẠM ĐỨC HẠP, ĐẠI LÃO HOÀ THƯỢNG THIỀN SƯ, THIỀN TOẠ HẠ, TÁC ĐẠI CHỨNG MINH.


 


Pháp Tử THÍCH THANH KHÁNH

cung tả