Trang chủ Văn hóa Tranh thờ Phật giáo

Tranh thờ Phật giáo

184

Những loại tranh thờ


Trong những  thể loại  nghệ thuật tạo hình Phật Giáo Việt Nam, tranh thờ là loại tranh trang trí dùng trong hệ tín ngưỡng và tôn giáo. Hầu hết các tôn giáo Việt Nam đều dùng đến tranh thờ, như Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo, Ki Tô Giáo.  Tuy nhiên trong dòng tín ngưỡng dân gian, thì những loại tranh thờ khá phổ biến chỉ thấy ở một số loại hình tín ngưỡng đã tương đối phát triển, điển hình nhất là những tín ngưỡng chịu ảnh hưởng của những tôn giáo phát triển, đúng hơn là những tôn giáo đã được dân giáo hoá trong mọi sinh hoạt.


Tại nhiều nước trên thế giới, tranh thờ, ngoài ý nghĩa tín ngưỡng, tôn giáo ra, còn được coi là những tác phẩm nghệ thuật tạo hình, đôi khi còn là những mẫu mực trong nhiều thể loại: những tranh “nê hoạ” (fresques) thờ Thần và thờ Phật, được tìm thấy trong các hang động ở Ấn Ðộ, Tây Tạng, Trung Quốc, những bức icônes (tranh thờ vẽ trên gỗ) của Arménie, Byzance, những tác phẩm hội họa Ki Tô Giáo thời Trung Cổ  và thời Phục Hưng, những tiểu hoạ Ba Tư của Hồi Giáo… (theo Văn Ngọc).


Những tranh thờ cổ, họa hoằn mới thấy được vẽ lên trên  vải, lụa, đa phần thì vẽ bằng  bột màu lên trên giấy. Tất cả được bày bán khắp phố phương ngày Tết, dưói dạng thức khác nhau. Cũng tìm thấy ở những tộc người trong dân tộc Việt Nam, Kinh cũng như Thượng, đó là những hình thức trang trí, hay hình thức thờ cúng tổ tiên, trong hệ thờ Mẫu, thờ Thần, thờ những vật linh, Phật Giáo, Ðạo giáo mang tính bình dân. Tranh thờ và tranh Tết thường cùng mang ý nghĩa giống nhau, trong dòng tranh Việt Nam cũng như các loại tranh cổ.


Trong nghiên cứu nội dung, hai loại tranh nầy không có những sai biệt rõ ràng. Chẳng hạn: Tranh Tết phổ biến ra, một mặt là để trang hoàng nhà cửa, thờ phượng, những mặt khác thì để nói lên những ước vọng của mình. Những tranh Phước, Thọ, Khang, Ninh… với màu sắc tươi vui, rạng rỡ, ngoài phong cách trang trí, còn là hình thái hy vọng trong cuộc sống tương lai cho bản thân, gia đình và xã hội.  Chỉ vài bức tranh chữ hay tranh vẽ cũng đủ để tạo khung cảnh trang nghiêm trong gia đình, như để cháo đón những thành tựu trong tương lai.


Những tranh vẽ về tín ngưỡng: Di Đà Tam Tôn, đức Bổn Sanh Thích Ca Mâu Ni Phật, đức Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, đức Phật Bà Quán Thế Âm, đức Địa Tạng Vương Bồ Tát,  đức Thường Tinh Tấn Bồ Tát, đức Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát, Thiện Tài Đồng Tử, Thập Bát La Hán, Bồ Đề Đạt Ma, Lục tổ Huệ Năng, Bồ Tát Thích Quảng Đức…, những anh hùng dân tộc, như tranh Quang Trung, Lê Lợi, Hưng Ðạo Vương, Hai Bà Trưng,  để con cháu chiêm ngưỡng, tôn sùng, cũng là hình thức giáo dục Phật Giáo đồ, người dân hướng về  Đạo pháp và Dân tộc trong những giai đoạn phát sinh, phát triển, thịnh suy của sơn hà.


Nhìn chung, tranh thờ dân gian, với nội dung dùng trong nghi lễ, trang trí, thờ phụng đều là những nội dung chính yếu của dòng tranh  cính Việt Nam. Kỹ thuật tuy thô sơ, nét bình dân mộc mạc, nhưng tất cả nói lên được ý niệm  tinh thần tôn kính, thờ phượng.


Người Trung Hoa cũng như người Việt Nam đều thích trang hoàng ngày Tết bằng những loại tranh khắc gỗ “nhằm tạo không khí năm mới vui vẻ, phấn khởi, nhân đó, cầu Trời Ðất phù hỗ, ban cho phúc lộc, tiêu trừ mọi tai hoạ bất hạnh…” (trích Tranh Tết khắc gỗ dân gian TQ).


Tranh đại chúng – theo những ý nghĩa nêu trên – có 3 chức năng thường liên hệ với nhau: loại tranh tôn giáo – tín ngưỡng;  tranh lễ hội và tranh thẩm mỹ. Có những loại tranh đại chúng khắc gỗ từ xa xưa hơn cùng  với nghề in kinh sách bằng ván gỗ. Theo những công trình nghiên cứu lịch sử, những bản khắc nầy còn lưu lại đến ngày nay (tại đính, chùa, miếu xưa) và sự phát triển rộng rãi của chúng, có chứng tích chế tác từ các thế kỷ XVI, XVII, XVIII.


Nhưng dần dà qua thời gian, với những biến động xã hội, và sự bảo quản không tốt, loại tranh nầy đã mai một đi nhiều. Thậm chí cách sử dụng tranh cũng không còn được phổ biến như trước nữa. Có những dòng tranh dân gian đã mất hẳn, những gì còn lại chỉ là những kỷ niệm, nhớ lại vào những dịp lễ hội, diễn xướng, và lưu  niệm cho những du khách hay những nhà sưu tầm đồ cổ mà thôi. Tuy nhiên, đối với những nhà nghiên cứu và sáng tác, thì đó là những vốn quý. Những họa sĩ lừng danh trước đây như Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái… và một số hoạ sĩ trẻ khác đã có ý thức khai thác tranh khắc gỗ đại chúng về mặt thẩm mỹ tạo hình.


Giai thoại:  Nhiều giai thoại về một số thể loại tranh nầy. Sách cổ chép: “Vào thời xa  xưa, có hai anh em tên Thần Ðỗ, Uất Lũy chuyên môn giám sát bọn ma quỷ, phát hiện có quỷ thần gây hạn, bèn bắt trói lại cho hổ ăn thịt. Thế là Hoàng Ðế cho vẽ tranh Thần Ðỗ, Uất Lũy vào trước cửa nhà mọi người dân, để phòng trừ ma quỷ”. Có thể đây là cách cường điệu, hư cấu, tuy nhiên ý nghĩa của loại “thần giữ cửa” nầy vẫn được truyền bá và sáng tác đủ thể loại.


Một truyện  tích tưong tự khác: Một vị vua đời nhà Ðường (TQ) đã ra lệnh cho Ngô Ðạo Tử vẽ tranh Chung Quỳ, rồi sau đó cho khắc bản in ra, để thưởng cho đại thần dán cửa, tránh trừ ma quỷ.  Những truyện trên đây cho thấy: Vào những ngày đầu Xuân, dân chúng thường muốn tránh mọi tai họa có thể xẩy ra, hy vọng năm mới thoát được mọi khó khăn, tạo dựng cuộc sống thăng hoa. Năm nầy qua năm khác, không hiểu kết quả thế nào, vẫn là niềm tin ý nghĩa cuộc sống mới.


Tranh Trung Hoa: Vào đời Tống, đã xuất hiện kỹ thuật khắc trên gỗ khá tinh vi và nhanh chóng, đã thúc đẩy  loại tranh Tết không ngừng phát triển. Cùng với sự lưu truyền rộng rãi của tranh tín ngưỡng dân gian và công dụng của nó không ngừng phong phú hoá. Ðến đời nhà Minh, nhất là đời nhà Thanh, loại tranh tín ngưỡng Trung Hoa phát triển ở đỉnh cao.  Một số dùng trang hoàng, biểu tượng, số khác thì dùng làm “bùa” để trừ tà, đuổi quỷ, dần dà tăng thêm những loại đề tài “cát tường”


Những dòng tranh chính


Tại miền Bắc Việt Nam, tranh Tết có hai dòng chính là tranh Ðông Hồ và tranh Hàng Trống. Ngoài ra còn có dòng tranh  Kim Hoàng, cũng mang những nét nghệ thuật riêng và phong cách riêng. Ở Huế có loại tranh làng Sình (Hà Trung hiện nay), đối liễn làng Chuồn. Trung tâm sản xuất tranh Ðông Hồ là làng Hồ, xưa kia có tên là làng Sen Hồ, gọi tắt là làng Hồ, thuộc địa phận tỉnh Bắc Ninh cũ, nay thuộc Hà Bắc. Dòng họ Nguyễn Ðăng chỉ đạo việc sáng tác dòng tranh nầy, sau truyền bá sâu rộng. Tranh Ðông Hồ vốn có từ 4,5 thế kỷ trước đây và các ván gỗ dùng để in được đoán định vào  khoảng 200 năm trước đây. Khi ván khắc khá lớn vì những thể tài thực hiện của dòng tranh nầy khá phức tạp, mỗi tranh cần dùng nhiều bản khắc cho từng màu khác nhau. Ván in nét khắc theo kiểi “chân đê”, cao và dầy, cho nét nét và mảng tranh rất đậm và rất rõ nét..


Tranh Ðông Hồ thường dùng những màu tự nhiên: vàng hoa hiên, đỏ son, trắng điệp, đen tro than. Số màu dùng nhiều nhất được hạn định là 6 màu (tranh lợn nái). Có tranh chỉ dùng 3 màu (tranh Phật Bà Quan Âm), tuy nhiên vẫn có thể giữ được hài hoà. Những chi tiết trong tranh Ðông Hồ thường giản đơn, cho nên tranh có nét vẽ mạch lạc, khoẻ mạnh, (như kiểu phù điêu ở các đình làng miền Bắc. Những tranh phức tạp như ngài Bồ Đề Đạt Ma, ngài Lục Tổ Huệ Năng) thì  dùng đến 34 chi tiết (theo họa sĩ Nguyễn Đăng Trí). Tất cả các màu dùng trong tranh Ðông Hồ được in phẳng. Các màu không được pha lẫn nhau, không chồng màu nọ lên màu kia. Người ta in tranh bằng cách đánh các dấu cữ lên trên bản khắc, áp giấy lên, sau đó dùng xơ mướp xoa đều.


Như thế chất lượng sắc thái mỗi bản in tùy thuộc cách pha màu, cách in mỗi người. Giấy in tranh là giấy dó – làm thủ công từ cây dó, thân mềm và dai. nền giấy có khi được phủ màu vàng hay trắng, có điệp (vỏ sò nghiền), giúp cho mặt tranh bằng phẳng, cứng, óng ánh, thường có thớ ngang do vệt bút lớn quét  nền để lại. Với những đặc điểm trên đây, theo ngôn ngữ tạo hình thì tranh Ðông Hồ có những đặc trưng “đồ họa – in – màu” của Việt Nam”


Trung tâm sản xuất tranh Hàng Trống là khu vực phố Hàng Trống (Hà Nội), có lẽ xưa phạm vi hoạt động của tranh Hàng Trống lan rộng sang cả những khu phố lân cận như Hàng Hòm, Hàng Mành, Hàng Quạt, Mã Vĩ, Hàng Nón… Theo chứng liệu, tranh Hàng Trống vốn do những nghệ nhân của dòng họ Lê Văn truyền nhau; nổi tiếng nhất là các thể loại: Lý ngư vọng nguyệt, Tố nữ, Thất đồng, Tam đa, Ngũ Hổ, Hắc hổ, Bà Chúa Thượng Ngàn, Ông Hoàng cầm quân, đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Tam toà Thánh Mẫu… “Tranh  Hàng Trống được in với nét mảnh, nuột, tinh vi trước, rồi vờn phấn sau, trên loại giấy “xuyến chỉ”. Số màu trên tranh thường nhiều hơn tranh Ðông Hồ (8 hay 9 màu). Các chi tiết trên tranh cũng nhiều gấp bội; chẳng hạn như tranh “Ông Hoàng Ba”  (tranh Thánh Mẫu) tính ra có đến 148 chi tiết.


Ngược với tranh Ðông Hồ, kỹ thuật tranh Hàng Trống dùng nhiều màu “lạnh” hơn. Lại có sự vờn màu, tạo khối và có sự chồng màu lên nhau qua khá nhiều công đoạn. Những khu vực nầy chuyên sản xuất những ngành thủ công phục vụ cho các sinh hoạt văn hoá, hội hè, thờ cúng, đều được tập trung cả một khu phố nhỏ bé của Hà Nội: từ Hàng Trống (bán những đồ cúng lễ) đến Hàng Gai (bán những đồ chơi nhi đồng trong dịp Trung Thu), Hàng Mã (bán đồ vàng mã) rồi xuống Hàng Hòm, Hàng Mành, Hàng Quạt, Mã Vĩ (đồ thờ cúng) Hàng Thiếc (đồ chơi Trung thu bằng sắt tây) rồi sang Hàng Bút (nơi bán mực tàu, giấy bản, giấy dó, pháo và nhất là các phường tranh tập trung bày bán những loại tranh Tết từ nhiều nguồn sản xuất khác nhau.  Ở miền Bắc, hai dòng tranh Ðông Hồ và Hàng Trống có những đặc điểm khác nhau về phương diện kỹ thuật, mỹ thuật, kể cả cách làm ăn.


Những nghệ nhân làng Ðông Hồ lấy nghề nông là chính; sau mùa tranh và mùa pháo thì lại quay về với công việc đồng áng cho đến tháng 7, tháng 8, thì mới quay ra làm đồ mã để bán cho ngày lễ Vu Lan (rằm tháng 7, cúng Thập loại chúng sinh) và ngày Trung Thu (rằm tháng Tám). Họ lại nghỉ một thời gian cho đến tháng 11, 12 mới trở lại nghề làm tranh bán Tết âm lịch.  Ngược lại, nghệ nhân Hàng Trống, mặc dầu đã xuất thân từ nông dân (thôn Tự Tháp), nhưng bao nhiêu năm qua, họ đã bỏ hẳn nghề nông, cho nên ngoài việc bán tranh Tết ra, các nghệ nhân nầy còn vẽ thêm những loại tranh thờ, tranh truyện và làm các đồ phục vụ việc thờ cúng, lễ lạc và các phường tuồng như cờ, quạt,  trống, lọng, áo xiêm, mũ mãng… để bán quanh năm. (Theo Nguyễn Bá Vân và Chu Quang Trứ – Tranh dân gian Việt Nam – 1984)


Những loại tranh thờ  


Tranh thờ tập trung trong những chủ đề sau đây:


Về hình tướng Phật tượng nói chung, dựa theo những nguyên tắc trong nghệ thuật tạo hình, thường phân chia ra các loại: Phật hình, Bồ tát hình, La hán hình, Thần vương hình, Thiên vương hình, Quỷ hình,  Súc hình. Mỗi thể loại còn được chế tác theo nguyên tắc cách điệu, biểu trưng, tả chân, ấn tượng. Điều cơ bản để tạo nên sự khu biệt ấy một phần quan trọng là do các tư thế toạ lập, các thức thủ ấn, trang phục.  


Tượng Phật: Có 5 cách thể hiện Phật Thích Ca diễn tả những giai đoạn quan trọng trong cuộc đời  đức Thế Tôn: (a) Tranh tượng Cửu long (chín con rồng chầu) thể hiện lúc đức Thích Ca đản sanh. (b) Tranh tượng Tuyết Sơn: thể hiện giai đoạn tìm đạo, tu khổ hạnh. (c) Tranh tượng Niệm Hoa: thể hiện giai đoạn đức Bổn Sư cầm hoa sen thuyết pháp. (d) Tĩnh toạ: đức Phật thành chánh quả. (e) Nhập diệt: đức Phật nhập Niết bàn, trong tư thế nằm.


Tượng Phật đản sinh được thể hiện nhiều loại khác nhau. Đặc trưng của pho tượng nầy là tượng Ngài đứng trên một đài sen, một tay chỉ lên trời, tay kia chỉ xuống đất. Chi tiết biểu thị Phật trong hình tượng là hai tai có thùy châu dài theo lối hiểu “tai dài như tai Phật”.  Trong những pho tượng tạc bảo lưu đến nay, sự tuân thủ vào quy pháp tạo hình cũng không thống nhất: chẳng hạn: bức họa đức Thích Ca đản sanh thì tay phải chỉ lên trời; còn tranh lưu hành tại một số chùa khác  thì ngược lại, tay trái chỉ lên trời. Về sau từ thập niên 1960 của thế kỷ XIX, thì mới phổ biến hàng loạt những tranh tượng “tay mặt chỉ lên trời”. Những tranh tượng nầy đều dựa theo ý niệm “trụ như sơn” chứ không theo lối “hành như phong”.   Ở những tranh tượng Phật đản còn lưu hành tại miền Nam Việt Nam hiện nay, sự tuân thủ nguyên tắc đồ tượng cũng được áp dụng trong những loại  tượng khác.


Tượng Di Đà Toạ Thiền:  Tượng Phật nầy được chế tác chân phương và có phần đăng đối. Đầu có tóc xoắn ốc, giữa đỉnh đầu có nhục kế nổi cao, tai dài xuống gần vai, áo cà sa rộng trùm và hai bả vai, cổ tròn, tay áo dài rộng. Phật ngồi theo thế kiết già trên tứ phương toạ; chung quanh trang trí hình sen. Hai tay đặt chồng đối với  nhau theo thế “thủ ấn thiền định” (dhyana mudra). Đây cũng là họa tiết và kiểu thức của các tượng Bồ tát Quan Âm, mà có những đường nét theo kiểu tượng hình Di Đà Tam Tôn; nhưng những ngôi chùa trong vùng lại không thấy tượng của ngài Bồ Tát Đại Thế Chí. Nhìn chung, tranh tượng đức Phật Di Đà được chế tác theo đúng chuẩn mực, thể hiện được “tướng hảo quang minh” và “tùy hảo vô lượng”.  Chưa thấy có đủ các tượng “tam thập nhị tướng” và “bát thập tuỳ hản” mà kinh sách thường ghi chép.


Tượng đức Phật Di Lặc: Trong đồ tượng học, tượng Phật Di Lặc là tập hợp được thể hiện trong diện mạo hình tướng “Di Lặc lục tặc”: đầu tròn, áo hậu, ngồi bệ lập phương, y toạ, tĩnh tâm, thiền định.


Tượng Quan Âm: Những pho tượng lưu hành đều theo sáu cách thể hiện quy định (a) Quan Âm Chuẩn Đề: theo công thức thì tượng nầy có ba mặt và 18 tay. (b) Thiên thủ, thiên nhãn:  Quan Âm nghìn tay, nghìn mắt như  ở chùa Bút Tháp. (c) Quan Âm tọa sơn: thể hiện đức Quan Âm ngồi trên đỉnh núi. (d) Phật Bà: thể hiện Phật bà Quan Âm đội mũ ni, ngồi toà sen. (e) Quan Âm tống tử: thể hiện đức Quan Âm ngồi bế đức bé, một bên có Thiện Sĩ (biểu trưng bằng hình con vẹt).


Tượng Bồ Tát Chuẩn Đề: Trong đồ tượng, xét về hình tướng của Bồ Tát Chuẩn Đề không khác gì so với Quan Thế Âm Bồ Tát. Pho tượng thường trình bày nhiều tay: có  tranh tượng 6 tay, có tranh tay, có tranh 18 tay, biểu trưng cho công năng trong từng giai đoạn và trường hợp hành trì. Tại một số chùa, tranh tượng Bồ Tát Chuẩn Đề lại thêm nhiều tay nữa, ngồi kiết già.  Tại một số chùa khác thì đài toạ và tư thế có hai loại tranh khác nhau: một loại trình bày Chuẩn Đề cỡi công (gọi là Khổng Tước tọa); loại thứ hai gọi là Chuẩn Đề Lục giác toạ.  Nếu so với quy pháp đề tượng chính thức của ngài Chuẩn Đề thì các tranh tượng Chuẩn Đề ở những chùa chiền Việt Nam có phần được giản lược hơn. Những trì vật thông thường là Nhật Nguyệt Quan Âm.


Địa Tạng Vương Bồ tát: Trong tập hợp những loại  đồ tượng đức Địa tạng Vương Bồ tát được phân chia ra làm hai loại chính: loại thứ nhất là tượng ngồi trên ngai, chung quanh có các thị hầu oai nghiêm; loại thứ nhìn ngồi trên con thanh sư, mỗi biểu trưng cho việc hành trì chánh pháp. Cả hai đều có những điểm chung nhất trong nghệ thuật tạo hình: đầu đội mũ Tì Lư (hay Thiên Sứ Tì Lư), toàn thân khoáv Y bá nạp, một tay để ngửa trước bụng, trên có một hồ bình hay bửu bát; tay kia giơ cao lên; ngón áp út khuyên tròn lên ngón cái. Phật thoại ghi: Tướng pháp nầy biểu trưng cho ấn thí vô uý. Ngoài ra, một số tượng biểu trưng cho “ấn an ủy”. 


Trong một số đồ tượng khác, tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát còn có hai đệ tử theo hầu: Mẫn Công và Đạo Minh. Một số tượng khác thì còn thêm Chủ Mạng Quy Vương. Trong nhiều tượng đất nung về pho tượng nầy thì gậy tích của ngài Địa Tạng Vương lại thấy ở tượng của Chủ Mạng Quỷ Vương; trong khi đó trái châu biểu hiện cho thần lực của Ngài thì thấy ở  tượng Mẫn Công. Giải thích điều nầy, Pháp thoại ghi: Hình tướng Địa Tạng Vương ở đây là một trong 6 trường hợp hoá thân của Ngài, được gọi là Lục Địa Tạng. Lục Địa Tạng là: Đàn Đầu Địa Tạng, Bảo Châu Địa Tạng, Bản Ấn Địa Tạng,Trì Địa Địa Tạng, Trừ Chướng Địa Tạng và Nhật Quang Địa Tạng.


Thập bát La hán   Sự tích 18 vị La-hán được chép trong sách Pháp Trụ Ký. Sách này do vị Đại A la hán Nan Đề Mật Đa La (Nandimitra) trước thuật và Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang (600-664) dịch ra chữ Hán.  Ngài Nan Đề Mật Đa La (còn có tên là Khánh Hữu)  người Tích Lan, ra đời khoảng năm 800 năm sau Phật Niết bàn. Theo Pháp Trụ Ký (Fachu-chi), thì Ngài chỉ lược thuật lại kinh Pháp Trụ Ký do Phật thuyết giảng mà thôi. Sách này trình bày danh tánh, trú xứ và sứ mệnh của 16 vị La-hán. Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thông và Bát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp và làm lợi lạc quần sanh.


Danh tánh và trú xứ của các Ngài như sau:  Tân Đâu Lô Bạt La Đọa Xà (S: Pindolabharadvàja), vị tôn giả này cùng 1000 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Tây Ngưu Hóa châu.  Ca Nặc Ca Phạt Sa (S: Kanakavatsa), vị tôn giả này cùng với 500 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại phương Bắc nước Ca Thấp Di La.  Ca Nặc Ca Bạt Ly Đọa Xà (S: Kanakabharadvàja), vị tôn giả này cùng 600 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Đông Thắng Thân châu.  Tô Tân Đà (S: Subinda), vị tôn giả này cùng với 700 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Bắc Cu Lô châu.  Nặc Cự La (S: Nakula), vị tôn giả này cùng 800 vị A-la-hán phần lớn cư trú tại Nam Thiệm Bộ châu.  Bạt Đa La (S: Bhadra), vị tôn giả này cùng 800 vi A-la-hán, phần lớn cư trú tại Đam Một La châu.   Ca Lý Ca (S: Kàlika), vị tôn giả này cùng với 1000 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Tăng Già Trà châu.   Phạt Xà La Phất Đa La (S: Vajraputra), vị tôn giả này cùng với 1100 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Bát Thứ Noa châu.  Thú Bát Ca (S: Jìvaka), vị tôn giả này cùng với 900 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại trong núi Hương Túy.  Bán Thác Ca (S: Panthaka), vị tôn giả này cùng với 1300 vị A-la-hán cư trú tại cõi trời 33.  La Hỗ La (S: Ràhula), vị tôn giả này cùng với 1100 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Tất Lợi Dương Cù châu.   Ma Già Tê Na (S: Nàgasena), vị tôn giả này cùng với 1200 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại núi Bán Độ Ba.   Nhân Yết Đà (S: Angala), vị tôn giả này cùng với 1300 vị A Lan Hán, phần lớn cư trú tại trong núi Quảng Hiếp.  Phạt Na Bà Tư (S: Vanavàsin), vị tôn giả này cùng 400 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại trong núi Khả Trụ.  A Thị Đa (S: Ajita), vị tôn giả này cùng với 1500 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại trong núi Thứu Phong.   Chú Trà Bán Thác Ca (S: Cùdapanthaka), vị tôn giả này cùng với 600 vị A-la-hán, phần lớn cư trú trong núi Trì Trục.  Từ khi có hình ảnh 16 vị La-hán, các chùa thường tôn trí hình ảnh của các Ngài, và từ con số 16 người ta thêm tôn giả Khánh Hữu thành 17 và tôn giả Tân Đầu Lô thành 18 (nhưng không biết ai là tác giả đầu tiên của con số 18 này). 


Tứ Thiên Vương:  Tứ Thiên Vương còn được gọi là Hộ Thế Tứ Vương là hình tướng tiêu biểu cho Thiên Vương Hình. Cả bốn vị đều ngự ở cõi trời “Tứ Thiên Vương Thiên” (Caturmaha Rajakasika) thuộc về cõi trời dục giới; lưng chừng trên ngọn núi trung tâm vũ trụ gọi là Tu Di Sơn,  thấp hơn cõi trời Đao Lỵ của Đế Thích. Tứ Thiên Vương là ngoại thần của Đế Thích có trách nhiệm thống quản cõi trời theo 4 hướng: Trì Quốc Thiên Vương (Virudka) (Hướng đông), Quảng Mục Thiên Vương (Viruphaka) (Hướng tây), Tăng Trưởng Thiên Vương (Dhrtarastra) (Hướng nam), Đa Văn Thiên Vương (Dhananda) (Hướng bắc). 


Tứ Thiên Vương đã từng nghe đức Phật thuyết pháp kinh Đại Thừa và cũng đã nguyện độ trì Tam bảo. Do vậy, mà các chính điện chùa chiền đều có tranh và tượng Tứ Thiên Vương.  Biểu tượng của các tướng Thiên vương là một tướng nhà trời oai nghiêm: đi giày trận, mặc áo giáp, đầu đội kim khôi, tay cầm bửu bối; đàn tỳ bà, bảo kiếm, vòng kim cang, ngọc châu, che dù, có con “hoa hồ điêu”. Đó là hình tướng phổ biến trong các tượng thuộc đề tài nầy cũng như trong điệu múa “Tứ Thiên Vương” ở cung đình Huế.


Một số làng miền Nam cũng theo nghi lễ như vậy. Tuy nhiên, ở đây, các loại bửu bối đã được giản lược bớt, chẳng hạn như mũ kim khôi được thay bằng mũ “ngũ Phật” với hình 5 cánh sen.


Bát Bộ Kim Cang: Đây là các vị Kim Cang lực sĩ (Vajrapani) cũng được gọi là Kim Cang Thần; thường chỉ chung các vị thần cầm chày Kim Cang (như Kim Cang Thủ, chấp Kim Cang) biểu hiện uy thế lớn lao, bảo vệ Phật pháp ở khắp tám bộ chúng (Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Khần Na La, Ma Ha La Già). (Theo Đoàn Trung Còn). Nghiên cứu kỹ những đồ tượng đất nung và đồ gốm cải tiến, thì những vị Kim Cang Thần được chế tác với dạng các võ tướng: đầu đội kim khôi, mình mặc áo giáp, vai có phong đai, tay cầm hoa sen, ngọc châu… Tuy là Thiên Hình tướng như Bát bộ Kim Cang đều có diện mạo thanh tú, khuôn mặt hiền hậu, phúc đức. Điều nầy khác với vẻ oai vệ và dữ dội của các loại tượng Kim Cang khác.


Những vị Hộ Pháp (Dharma Pala):  Những vị Hộ Pháp Thần cũng có hình tướng oai vệ và trang nghiêm: mặc áo giáp, đội kim khôi, có phong đai, đi giày trận, tay cầm chày Kim cang, chống mũi nhọn vào miệng một con rồng ẩn trong mây.  Đây là hình tượng của Vi Đà (Skanda) – một vị thần có nguồn gốc Bà La Môn giáo. Theo truyền thuyết thì chức năng của chư Hộ Pháp là bảo hộ chư thần của tôn giáo này đã được Phật Giáo đồng hoá thành một thần Hộ Pháp. Thường thờ mặt trước của chùa chiền, miếu vũ. (dẫn theo nhà nghiên cứu PG Huỳnh Ngọc Trảng)


Những tranh cúng gia tiên đầu năm: gồm bức tranh ba vị Thổ Công, Tiên Sư và Táo Quân, bên cạnh đó còn có những tranh các khí dụng, cung tên, các tranh hổ trắng, hổ vàng, ngựa, trâu, heo và tranh hai vị thần giữa cửa nhà.


Những tranh cúng thế mạng: gồm tranh đàn ông, đàn bà, bé trai, bé gái gọi chung là những “con ảnh” mà dân gian xưa tin rằng sẽ thay cho chủ nhân, chịu đựng những tai ách khi bị đày xuống cỏi âm ty. So với bộ tranh cúng thế mạng là những con ảnh cùng loại ở miền Nam, đầu đội mũ xưa, có mang bài ngà, hoặc đội kim bôi và hai chữ Hán, Nam Nữ hai bên, thì tranh làng Sình thanh thoát hơn và nổi bật hơn nhiều.


Bộ tranh “cúng quan sát” (cúng bệnh cho trẻ con) gồm các tranh bà Càn Thát, Phạm Thiên Vương, Tướng bắt Trẻ, Thập Nhị Thời Thần, vừa có nét giản phác (như loại tranh 12 con giáp), lại vừa có nét uy nghiêm, như ba Thần Tướng vừa trình bày ở trên.


Bộ tranh cúng bà bổn mạng: chỉ có một ảnh bà phục trang nghiêm chỉnh, an toạ, có thị nữ cầm quạt đứng hầu bên cạnh. Tùy theo năm tháng sinh của người phụ nữ, mà nơi bà ngồi có thể là đài sen, có ngai ngay trên lưng con cá chép, con rồng hay con voi trắng,và số lượng những thị nữ hầu từ 2 đến 12 người.


Thần Ngũ Hành: Thờ Thần Ngũ Hành rất phổ biến trong lề lối thờ cúng bình dân Việt Nam. Thờ phụng thần Ngũ Hành là một thể loại tín ngưỡng vạn vật linh thiêng rất phổ biến trong nhiều dân tộc Á Đông. Tín ngưỡng nầy bắt nguồn một phần từ Trung Hoa, phần khác là do ảnh hưởng của tín ngưỡng thời sơ sử. Tư tưởng nầy nhấn mạnh sâu sắc từ việc tiếp thu học thuyết Âm Dương trong Kinh Dịch và Ngũ Hành trong Kinh Thư.


Tất cả phản ánh những nhận thức căn bản của con người thời cổ đại khi đứng trước những vấn đề thiên nhiên, thần linh và tai ách trong cuộc sống của họ.Thuyết Ngũ Hành có thể hiểu được là thuyết biểu thị quy luật vận động của thế giới của vũ trụ. Điều nầy đã bổ sung cho thuyết Âm Dương thêm hoàn chỉnh. Với năm chất liệu cấu tạo nên vạn vật: kim, mộc, thủy, hoả, thổ được phát triển theo hướng vận động “ngũ hành tương sinh” và “ngũ hành tương khắc”, nhằm chứng minh sự vận hành của vũ trụ.


Người bình dân Việt Nam đã ứng dụng thuyết nầy với những nhận định thực tiễn và đơn giản: chẳng hạn như vùng nào thường xảy ra hoả hoạn, nhất là trong thời kỳ viêm nhiệt thì hành Hoả được lập miếu thờ. Vùng có sông nước, duyên hải thì thờ Thần Thủy (Mẫu Thoải). Vùng rừng núi thì thờ bà Chúa Thượng Ngàn. Vùng trống lúa thì thở thần Thổ. Những sắc phong của triều đình trước đây thường ghi là  Hoả Đức (hay Kim, Mộc, Thủy, Thổ) Thánh Nương, trứ phong Dực bảo trung hưng, Thượng đẳng thần”.


Thờ  Thổ Công: Thổ công là vị thần nầy rất phổ biến trong việc thờ phụng trong gia đình. Mỗi khi trong gia đình có những tai ương xẩy ra, việc đầu tiên trong ý thức tín ngưỡng là xem xét lại việc thờ ba vị thần nầy đã trúng quy cách nghiêm trang chưa? Thần Thổ Công trông nom mọi việc trong bếp núc; thần Thổ Địa trông nom mọi việc trong nhà cửa, đất đai kể cả vấn đề phong thủy; thần Thổ Kỳ trông nom việc chợ búa cho đàn bà hay việc sinh sản mẫu vật ở vườn đất.  Khi thiết lập bài vị của ba vị thần nầy thì phải ghi rõ: “Đông trù tư mệnh Táo phủ Thần quân. Thổ địa long mạch tôn thần. Ngũ phương, ngũ thổ phúc đức chính thần”. Trong ba vị thần nầy, đứng hàng đầu vẫn là Thổ Công, vì theo nhận định thì “Thổ Công chính là vị thần trông coi mọi việc gia cư, định việc họa phúc của con người và gia đình tín chủ”. 


Nghiên cứu sự phát sinh, phát triển trong việc thờ cúng nầy cho thấy rõ: việc thờ phụng ba vị thần nầy đã phản ánh quá trình định cư của con người, đồng thời ổn định cuộc sống của cư dân phát triển nghề lúa nước.  Trong hệ tư tưởng, mái nhà là trung tâm của mỗi gia đình, là đơn vị chính cơ sở của cộng đồng xã hội – xã hội nông thôn Việt Nam – thì ở đây, công việc nội trợ được đặc biệt chú trọng, đồng thời đề cao vị trí vai trò của người phụ nữ – người mẹ – trong cuộc sống gia đình.


Thần Khai Canh,  Khai Khẩn:   Trong việc thờ cúng tại đình làng, bên cạnh việc thờ vị Thành hoàng là chủ chốt, lại còn thờ hai vị Khai Canh và Khai Khẩn.  Cũng có một số làng vị Khai Canh, Khai Khẩn cũng đồng thời là  Thành hoàng của làng đó. 


Khai Canh, Khai Khẩn là nhân thần, tức là nhân vật có thật. Khai khẩn là người điều động việc mở mang đất đai thôn xóm để kiến tạo  nhà cửa, đường sá, cầu cống, khai lạch, đào giếng. Còn Khai Canh là vị hướng dẫn dân chúng làm ruộng nước, ruộng khô, trồng cây ăn  quả, trồng cây dựng nhà cửa. Họ chính là người tiên phong trong  việc xây dựng làng xóm ban đầu. Họ cũng thường là thủy tổ của  làng, là người ở vào thế hệ đầu tiên đến khai sơn phá thạch.  Thành thử việc tôn thờ, cúng tế, tán thán công đức là một hình  ảnh thuần đạo lý, khuyên dạy con cháu về sau nên “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.


Tuy nhiên, vấn đề Khai Canh, Khai Khẩn cũng tùy theo trường hợp  kiến tạo làng. Chẳng hạn như tại các làng xã ở miền Bắc Việt Nam do làng xã được thiết lập từ lâu đời, có nơi từ thời đại đồ đồng sắt, cho nên thật khó để xác định rõ ai là vị Khai Canh, Khai Khẩn.


Những thần phả của những làng vùng đất Bắc chỉ chép về giai đoạn sau cho nên không truy nguyên được.  Còn những làng xã miền   Nam Việt Nam, thì toàn là những nơi khai phá hay do chủ trương của nhà cầm quyền tổ chức hàng loạt làng xã trong một lần, phân  chia có kế hoạch, cho nên đã không có vị Khai Canh, Khai Khẩn.


Đa số những làng xã miền Trung, qua những đợt tổ chức di dân vào phía nam, tìm nơi lập ấp, nên các vị Khai Canh, Khai Khẩn đã được xác định rõ. Những vị nầy đã đứng ra điều hành, tổ chức khéo léo, vận động mọi người và củng cố làng xã ban đầu chống lại mọi  chướng ngại.


Thờ Ngũ Hành: Ngũ Hành Nương Nương là năm vị nữ thần quan trọng trong lễ bái  của dân gian Việt Nam, biểu tượng cho năm chất cấu tạo ra vũ trụ.  Theo quan niệm cổ truyền thì vũ trụ sanh nên biểu tượng những nhân vật nữ được gọi là “Năm Mẹ”: Thổ Đức Thánh Phi, Hoả ĐứcThánh Phi, Kim Đức Thánh Phi, Thuỷ Đức Thánh Phi và Mộc Đức Thánh Phi. Người bình dân thường tin rằng: Năm vị nữ thần nói trên có những quyền năng đối với các nghề liên quan đến đất đai, củi lửa, kim loại, nước nôi và cây gỗ (Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ). Do đó,  được đông đảo quần chúng tôn thờ dưới mọi hình thức, nhất là những vùng nông thôn và ven đô.  Bài vị của Ngũ Hành thường được thờ trong những am, miếu, điện; gần đây có phong trào thay thế bài vị của Ngũ Hành Nương Nương bằng những loại tượng đúc bằng xi măng hàng loạt; mỗi vị sơn một màu riêng, phù hợp với năm tính chất: vàng, đỏ, xanh, trắng và tím.


Ngoài Ngũ Hành Nương Nương vừa nói trên, có nhiều nơi lại còn thờ thêm “Nhị Vị Công Tử” hay là “Nhị Vị Công Nữ”, gọi là  Thánh Cô và Thánh Cậu. Theo những nghiên cứu của các nhà phong tục học thì đây là sự ảnh hưởng của cách thiết lập những điện thờ nữ thần Thiên Y A Na (Bà Chúa Tiên, Bà Chúa Ngọc), tức là biến  tướng của Bà Mẹ Xứ Sở Pô Inưga của người Chăm Pa (Chiêm Thành).


Thờ  La Sát: Toàn danh hiệu của vị nữ thần nầy là Phổ Thiên Chi Hạ La sát Thánh Nương, còn được gọi là “Bà Thánh Anh La Sát”. Nguyên gốc từ loài “chằn” Rashasha của đạo Bà La Môn, được hội nhập vào tín ngưỡng của người Khmer, rồi được dân gian hoá, thờ phượng trong nhiều đền miếu.  Theo Phật Giáo thì quỷ La Sát Ha Ly Đế (Hariti)  hay bắt con nít đem về cho con mình ăn thịt; sau đó, đức Phật (?)  cảm thương, nên đã dùng phép thần thông bắt đứa con của  quỷấy tên là Tân Già La (Pingala) nhốt dưới một chiếc bát. Quỷ La Sát thương con, cho nên đã đến cầu khẩn xin đức Phật tha tội. Đức  Phật khuyên mẹ con chúng quy y Phật Pháp, cải tà quy chánh, nhưng con quỷ nầy lại ngần ngại, vì lũ con quá đông, nếu bỏ thịt người  thì tất cả những đứa con của mình đều đói khát.  


Đức Phật hứa giúp  chúng, cho nên, ngày nay mỗi trưa, trước khi lên qua đường thọ  thực, chư tăng có tục cúng mẹ con quỷ La Sát và các loài ma quỷ  khác. Về sau, quan niệm La Sát Nương Nương (tức Thiết Phiến Công  Chúa), mẹ của Thánh Anh Đại Vương (tức Hồng Hài Nhi) trong truyện Tây Du Lý nhập vào trong sự tích nầy.  Theo những truyền thuyết trong dân gian thì La Sát Nương Nương có  26 người con, thường làm hại trẻ sơ sinh và thiếu nhi.


Như vậy,  đây là vị thần vừa mang tính ác, lại vừa mang tính thiện, cho nên cũng thường được cầu cúng. Bài vị La Sát Thánh Nương thường được thờ trong miếu trước sân đình, hậu cần có Chúa Động Tiên Nương  (Bà Chúa Động), Cô Hồng, Cô Hạnh.  


Thờ  Thất Thánh: Thất Thánh Nương Nương còn được gọi là Bảy Bà tức là bảy nàng tiên ở cung Diêu Trì của Tây Vương Mẫu và thường phục vụ cho nhân vật nầy.  Các nàng tiên nầy là nữ thần của giới đồng cốt ở Trung Quốc, có tên theo màu áo thường mặc của mỗi người như Hồng Tiên Nương, Thanh Tiên Nương, Tử Tiên Nương, Bạch Tiên Nương, Hoàng Tiên Nương. Lục Tiên Nương và Lam Tiên Nương. Trong Tây Du Ký có  kể lại những nhân vật nầy.   Một số nơi khác thì Thất Thánh Nương lại đồng hoá với Thiên Y A Na cho nên bàn thờ lại còn thêm một người con trai và một người con gái. Thất Thánh Nương Nương thường thờ bằng bài vị, có nơi được tạc bằng tượng có tô màu theo kiểu áo. Phổ biến về việc thờ nầy trong vùng Cai Lậy, Cái Bè, Vĩnh Long.Tranh thờ 12 Mụ Bà : Vào đầu năm, phụ nữ miền Nam Việt Nam, nhất là những người mới kết hôn,  mong sinh con cái, mẹ tròn, con vuông thì thường đến cúng vái tại những đền  miếu có thờ 12  Mụ Bà. Tục thờ  nầy vốn có từ  lâu, từ vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, sau được phổ cập khắp nơi. Nhiều bức tranh thờ 12 Mụ Bà cũng được bày bán loại tranh thờ. 


Nhiều ngôi chùa Việt  hay chùa Hoa đều có thờ 12  Mụ Bà, như chùa Biên Hoà, chùa Phước Tường Thủ Đức, chùa Minh Hương Gia Thạnh Chợ Lớn, một số các  chùa miếu Bà của người Hoa các  nơi, nhất là tại điện Ngọc Hoàng, quận I Sài Gòn  có thờ một bộ tượng Bà Mẹ Sanh,  gồm 12  tượng bằng gốm men  màu (Quảng Đông Diêu)  do lò gốm Cây  Mai sản xuất. 


Tục thờ 12 Mụ  Bà là một thể loại tín ngưỡng  của người Việt tiếp nhận từ Trung  Hoa sang.


Theo truyền thuyết Trung  Hoa thì tục thờ  12 Mụ  bà có từ  thời Tây Hán,  và sau được  giải thích trong  bộ truyện “Phong Thần  Diễn Nghĩa”. Theo trong truyện  Khương Tử Nha  phụng chỉ Ngọc Đế phong cho 3 vị tiên đảo là Vân Tiêu, Quỳnh Tiêu và  Bích Tiêu  nắm giữ  cái Hỗn  Nguyên Kim  Đẩu (đấu vàng). Đời người  trước sau  đều chuyển  kiếp từ  cái “Kim  Đẩu”, tức là cái  “Tịnh Quyên” hoặc  “Sản Bồn” (chậu nước tắm trẻ  em sơ sinh). Vân  Tiêu, Quỳnh Tiêu  và Bích Tiêu, thường gọi là  “Tam Cô” là môn đồ của Quy Linh  Thánh Mẫu; ngày nay gọi là  “Chú Sanh Nương Nương”.  Chú Sanh Nương Nương còn gọi là  “Thụ Tử Thần” (Thần Ban Cho Con), gồm 12 bà chị (Thập Nhị Thư Bà), Thập Nhị Bảo Mẫu, Thập Nhị Đình Nữ,   ngẫu tượng hình là 12 tượng nữ bồng con, cho bú, tắm rửa, hay tay dắt tay bồng, đứng ngồi trong 12 tư thế khác nhau.


Tên 12 Mụ Bà  gồm có (1) Trần Tứ Nương là  bà chị “Chú Sanh” (2)  Vạn Tứ Nương là bà chị “Chú  Thai” (3) Nguyễn Tam Nương là bà chị “Giám Sanh”,  (4) Tăng Ngũ Nương  là bà chị “Bảo  Tống” (ẵm con),  (5) Lâm Cửu Nương  là bà chị “Thủ Thai” , (6)  Lý Đại Nương là bà chị “Chuyển Sanh”  (7) Hứa Đại Nương là bà  chị “Hộ Sản”, (8) Lưu Thất Nương  là bà chị “Chú  Nam Nữ” (định con  trai hay con gái),  (9) Mã Ngũ Nương  là bà chị “Tống Tử”, (10) Lâm  Nhất Nương là bà chị “An Thai”, (11) Cao Tứ Nương là bà chị “Dưỡng Sanh” (12) Trúc  Ngũ Nương là bà chị “Bảo Tử”  (bồng con).


Tuy nhiên con số nầy đã không đồng nhất. Chẳng hạn như  trong sách “Đài Bắc Thị Tuế Thời”  có ghi rằng: “Tại những nơi như Từ Hựu Cung tại Tòng Sơn, Đài Bắc  Thi, lại được phối  tự, thờ đến 13 Mụ Bà. Vị thứ  13 có tên là Đỗ  Ngọc Nương là bà chị “Tiếp Sanh” (đỡ đẻ)”.


Tranh “Phước  Thọ Song Toàn”: Ðây là loại  tranh Tết của làng  Cao Mật, tỉnh  Sơn Đông, đa phần là loại  tranh cỡ lớn, treo đứng lên vách phòng khách. Tranh vẽ một đứa bé cầm hai nhánh trái đào  (hàm ý: trường thọ) đứng giữa  vườn hoa thơm (hương viên) đủ loài hoa quý (mẫu đơn) biểu trưng cho đa phước.


Tranh “Thần  Hổ Trấn Trạch”: Tranh nầy  thường treo ở trung dường. Tranh vẽ một mãnh hổ  oai vệ. Tranh dựa theo truyền thuyết trong sách “Sơn hải Kinh” ghi rằng: Hai vị Thần Đỗ và Uất Lũy bắt quỉ cho cọp ăn. Trong sách Phong Tục Thông Nghĩa đời Hán chép:  Hổ có thể ăn ma quỉ (Phệ thực  quỉ mỵ), cho nên trong loại tranh Tết  dân gian cho  Hổ là chúa sơn lâm; thường treo giữa nhà để trấn  giữ  chống lại quỷ tà.


Tranh Chỉ Mã:  Ngoài ra, còn có loại tranh nhỏ, đơn giản từ nội dung đến trang trí, gọi là tranh Chỉ Mã. Theo nguyên nghĩa, “chỉ” là giấy; “Mã” là ngựa. Theo nhà nghiên cứu nổi tiếng Trung Quốc về tranh dân gian là Vương Thụ Thôn, thì: Sở dĩ có từ “chỉ mã” vì ngày trước, trên những hình vẽ thần kinh, người ta thường “vẽ kèm” một con ngựa bay, ngụ ý nói: Ðây là ngựa nhà trời, sẽ chở những vị thần linh đó lên trời. Chỉ  mã là tranh bùa khắc gỗ, in trên giấy, vẽ hình thần thánh, thường đốt tranh bùa ngay khi hoá vàng. Người Việt dùng chữ “đồ mã” cũng trong ý nghĩa nầy.


Tranh Thập điện: Tranh Thập điên là bộ tranh tương đối quan trọng nhất trong các bức tranh cổ (10 cảnh địa ngục), thực hiện cảnh khổ âm ty trong ngày lễ Vu Lan (Ðại hiếu Mục Kiền Liên cứu mẹ). Chẳng những bộ tranh của người Kinh, mà cả những dân tộc thiêu số (Tày, Nùng, Dao, Cao Lan…) cũng có nhiều bộ tranh khác nhau, với sự thể hiện theo phong cách khác nhau.  Cũng như tranh Thập Ðiện Trung Quốc, tại Việt Nam, loại tranh nầy thực hiện kích cỡ người to hay nhỏ, đẹp hay xấu, là tùy theo tính thiện hay tính ác, quan trọng hay không quan trọng, bố trí thành từng lớp, từ trên xuống dưới.


Theo sự nghiên cứu của  học giả Maurice Durand (Imagerie populaire vietnamienne – 1960) thì: Bộ tranh Thập điện trên đại thể đều có những điểm tương đồng, như bức Ðệ Tứ Ðiện ở Vũ Di (Vĩnh Phú), cùng bố cục, nhưng chi tiết hơi khác. Tuy không ghi rõ xuất xứ, nhưng phong cách thì hơi giống tranh Vũ Di…


Tài liệu:
Tranh dân gian Việt Nam – Nguyễn Bá Vân – Chu Quang Trứ
Tranh mộc bản Việt Nam – Nguyễn Khắc Ngữ
Đồ tượng học – Huỳnh Ngọc Trảng
Connaissance du Vietnam – M. Durand – J. Huard
Le paysan du delta tonkinois – M.  Robequain
L’ Indochine –  P. Pasquier
Imagerie populaire vietnamienne – M. Durand
Bulletin des Amies du  Vieux Hué – 1939-1944