Trang chủ Nghiên cứu Thắng và tự thắng, phần một

Thắng và tự thắng, phần một

“Tự chiến thắng mình” và “tự mình chiến thắng”, lời cú tuy hai mà ý nghĩa một, cùng nói một mệnh đề là chiến thắng. Chiến thắng đó có hai: thắng người và thắng mình. Tôi sẽ đi vào bàn xung quanh vấn đề này nhưng đặt nặng ở ý nghĩa sau, bởi theo tôi, thắng mình là đã bao gồm thắng người. Và qua đó tôi cũng muốn tìm hiểu xem đâu là giá trị đích thực của sự chiến thắng: thắng người hay thắng mình?


Tôi bắt đầu ý nghĩa thắng người trước.


Thắng người là gì? Thắng người, theo cách hiểu thông thường thì đây là cách thắng bằng sức mạnh của cả hai mặt tâm lí và vật lí. Thắng người bằng tâm lí là dùng sức mạnh của ý chí để thắng người. Cách thắng này ít ra là không trực tiếp gây khổ đau cho người và ít nhiều nhận được sự kính phục từ người khác.


Thắng người bằng sức mạnh vật lí là dùng sức mạnh của cơ bắp và những vật tùy thuộc bên ngoài để đánh người, bắt người phải theo mình, khuất phục mình. Cách thắng này làm cho người đau khổ cả về hai mặt tinh thần lẫn thể xác. Theo như cách thắng này thì có nghĩa rằng, muốn thắng được người điều tất yếu là phải có đấu tranh – đấu tranh đó hoặc do mình tạo nên hoặc do người tạo nên, xảy ra dưới mọi hình thức: đấu tranh xảy ra giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể hay giữa tập thể với tập thể.


Tôi nói không thể thoát khỏi đấu tranh mà không nói phải dùng đấu tranh, bởi tôi muốn loại trừ trường hợp có những người không bao giờ thích đấu tranh, nhưng khi bị áp bức, để thoát khỏi nô lệ thì họ phải đứng dậy đấu tranh.


Do vậy thắng người trong cách thứ hai cũng có hai hạng: hạng thứ nhất là thắng người bằng việc tự mình gây chiến tranh và cổ vũ chiến tranh, hạng thứ hai là thắng người bằng việc bị kẻ khác áp bức mà đứng dậy đấu tranh. Cả hai hạng người này đều đã tồn tại trong lịch sử.


Với hạng thứ nhất, lịch sử đã từng chứng kiến một Hốt Tất Liệt của Thành Cát Tư Hãn với những chiến công lẫy lừng trong việc chinh phục đất nước Trung Hoa và thế giới; một Hitler nổi danh sử sách trong đệ nhị thế chiến… Ngoài ra, người ta còn biết đến các tên tuổi như Tần Thủy Hoàng, Lưu Bang… với những chiến công mà họ đạt được cũng chẳng hề thua kém.


Còn hạng thứ hai, chỉ tính riêng trong lịch sử kháng chiến chống giặc ngoại xâm của nước Việt Nam thì người ta cũng đủ minh chứng một Lý Thường Kiệt từng đánh đuổi quân Tống qua đến tận Ung châu và Khiêm châu; một Trần Hưng Đạo ba lần đại thắng Nguyên Mông, đội quân hung hãn nhất thế giới vào thế kỉ XII; cũng như nhiều danh nhân lịch sử khác ở Việt Nam và trên thế giới đã từng thắng giặc tương tự nếu tôi muốn kể.


Vậy với hai hạng người chiến thắng đó, chúng ta nghĩ gì?


Có lẽ, điều mà tất cả chúng ta ai cũng phải thừa nhận là, cả hai hạng người này đã làm nên được nhiều chiến công thần kì, gây chấn động cả thế giới. Với những chiến công đạt được, họ đã khiến nhiều người trên thế giới phải nể phục. Điều đó thì không ai có thể chối cãi. Nhưng có phải người đời đã thật sự nể họ hay không, và nếu có thì nể họ là nể cái gì?


Ta hãy bắt đầu với hạng thứ nhất: thắng người bằng việc gây chiến tranh và cổ vũ chiến tranh. Người đời đã nể tài năng của họ? Đúng. Và bởi họ đã làm nên nhiều kì tích hiếm có trong lịch sử? Không sai. Còn gì nữa? Có lẽ, ngoài tài năng thiên phú thì họ không còn gì để người đời nể phục. Tôi nói chỉ nể phục mà không phải kính phục, vì họ đã để lại một hậu quả đổ nát quá lớn về mọi mặt mà không ai có thể khỏa lấp được.


Hậu quả đó, mỗi khi nhắc đến họ thì hầu như không ai muốn tha thứ, ngoại trừ những người có cùng quan điểm thắng người bằng gây chiến tranh và cổ vũ chiến tranh như vừa nói. Do vậy việc họ làm cho người đời nể phục chẳng còn giá trị gì cả. Hay nói đúng hơn, sự nể phục đó chẳng còn là sự nể phục (nếu chưa muốn nói là một sự ghê sợ). Vì sao? Vì họ chỉ thắng người đơn thuần bằng sức mạnh vật lí, nên chiến thắng đó của họ chỉ nhận được sự nể phục (bởi tài năng) mà không có sự kính nể (về đạo đức).


Bởi thế nên ai đó đã nói: Trước một trái tim vĩ đại thì tôi phải quì gối, nhưng một sức mạnh vĩ đại chưa làm tôi cúi đầu.


Còn hạng thứ hai, thắng người bằng đấu tranh do bị áp bức thì sao?


Nếu không xét trên yếu tố thắng người bằng ý chí (đức hạnh), thì so với hạng người trên, hạng người này hơn. Đó là lẽ đương nhiên. Bởi họ là người chuộng hòa bình, ghét đấu tranh, hay chí ít họ là người không gây chiến tranh hoặc cổ vũ chiến tranh. Không thích chiến tranh song vì tình thế bị ép buộc mà họ phải đấu tranh để giành chiến thắng.


Sự chiến thắng đó rất đáng ca ngợi, bởi họ đã không chỉ chiến thắng vì bản thân, vì gia đình mà còn vì quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, như tôi vừa nói: hễ đã có chiến tranh thì phải có đổ máu, cho dù chiến tranh đó được một số người xem là chính nghĩa. Mà đã có đổ máu thì làm gì tránh khỏi hận thù khổ đau! Có hận thù là có chiến tranh, có chiến tranh là có hận thù. “Không thắng sinh thù oán, thắng người bị người oán”, Phật cũng đã nói như vậy mà!


Thắng người bị người oán: Không lẽ bị giặc đô hộ, vì sợ bị thù hận rồi cứ cam chịu làm nô lệ hoài như vậy mà không đứng dậy đấu tranh sao? Không lẽ kẻ thù của mình mà mình cứ để cho họ nhởn nhơ tồn tại sao?… Vâng, vấn đề đó phải được giải quyết nhưng không ở trong cách thắng thứ hai, mà ở cách thắng thứ nhất, sau khi chúng ta đã đi qua ý nghĩa “tự chiến thắng mình”.


Bây giờ tôi đến với cách chiến thắng này.


Có thể nói rằng trong tất cả chúng ta không ai là không từng hơn một lần tự mình chiến thắng. Sự chiến thắng đó, mỗi người không ai giống ai về mục đích và cách thức đạt được. Có người tự thân nỗ lực mà thắng; có người nhờ ngoại cảnh tác động mà thắng; có người vì vật chất mà thắng; có người vì danh vọng mà thắng; có người vì lợi ích cá nhân mà thắng; có người vì lợi ích cho cộng đồng mà thắng… Vậy, thế nào là thắng mình?


Tự chiến thắng mình, ai cũng hiểu nôm na là tự mình chiến đấu với bản thân mình rồi mình thắng nó. Chiến đấu với cái gì? Chiến đấu với hai thứ là thân và tâm.


Chiến đấu với thân: Thân có hai thứ là nội thân (nội sắc) và ngoại cảnh (ngoại sắc). Nội thân bao gồm các yếu tố thuộc sinh lí như mắt, tai, mũi, lưỡi, tim, gan, phổi… Ngoại cảnh gồm có các yếu tố như sắc đẹp, tiếng khen, mùi thơm, vị ngọt… Những yếu tố đó luôn chi phối theo luật vô thường nên con người rất khó làm chủ: Tôi muốn thân tôi trẻ mãi thì nó cứ già. Tôi muốn cơ thể tôi đừng ốm thì nó cứ đau. Tôi muốn tóc trên đầu tôi mãi xanh thì nó cứ bạc. Biết vậy nên nhiều khi tôi muốn áp dụng một số biện pháp để thắng chúng.


Nhưng thật lạ, hễ khi tôi học bài thì nó ngăn lại, nó bảo: Không được, vừa mới ăn cơm no, ngồi nhiều sẽ bị tức bụng. Sáng sớm, tôi muốn tập thể dục thì nó bảo: Ồ không, trời hãy còn tối quá, ngủ thêm chút nữa cho khoẻ! Như vậy, để thắng được thân thật chẳng đơn giản chút nào!


Vâng, thắng thân, đó chỉ là một cách nói, kì thật là điều không thể làm được. Đã không thể làm được thì vì sao nói chiến đấu với thân? Làm như thế chẳng phải là nghịch lí và phí công sao?


Đúng thế. Khiến cho thân đừng bị luật vô thường chi phối là điều không thể. Và dù có ra sức làm đi nữa thì cũng chỉ phí công, không thể nào làm được. Vậy thắng thân ở đây có nghĩa là gì? Nghĩa là chính vì tôi biết nó vận hành theo luật vô thường nên khi nó đau tôi không bị cái đau chi phối, khi nó già tôi cũng không bị cái già chi phối… Thắng thân là nghĩa như thế.


Thắng thân tuy vậy vẫn còn dễ, thắng tâm mới thật khó, và thắng thân dễ hay không còn tùy thuộc vào nó. Có nghĩa rằng, trong cơ thể ta, nó là chủ, nó điều khiển tất cả hoạt động của thân. Bởi thế nên khi nói thắng mình thì người ta thường nhấn mạnh ở việc thắng tâm là vậy.


Vì sao phải thắng tâm?


Tâm có nhiều tính chất sai khác nhưng không ra ngoài hai loại là thiện và ác. Tâm thiện, nói theo đức Phật, đây chính là Chơn tâm hay Phật tính (tính giác ngộ), là những tâm lý như từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha… Vì là thiện nên mỗi chúng ta phải xem nó như chính bản thân mình, mình phải có trách nhiệm bảo vệ. Còn tâm ác là những tâm lý xấu xa như lười biếng, xan tham, tật đố, ích kỷ, ngã mạn… Vậy đối với hai tâm đó, chúng ta thắng tâm nào? Đương nhiên là thắng tâm ác rồi, bởi vì nó vô cùng độc hại.


Độc hại vì lẽ nó như gai nhọn, như hố than hừng, như lửa dữ, như tên trộm, như giặc… luôn làm hại ta. Và nguy hiểm hơn, như ở trong rất nhiều kinh, đức Phật thường ví nó là một thứ ma – phiền não ma. Gai nhọn, than hừng, lửa dữ, tên trộm, giặc cướp… tất cả những thứ đó, theo đức Phật, chúng chỉ hại mạng sống của ta trong một đời, còn ma thì làm hại mạng sống của con người trong nhiều đời.


Ta muốn tìm đến ánh sáng thì nó nhận chìm ta trong bóng tối. Ta muốn đi đường ngay thì nó cứ dắt ta đi đường cong. Nói chung là nó luôn kìm hãm sự tiến bộ của ta. Do vậy để thắng được tâm là một điều rất khó, nhưng ai đã thắng được thì chiến công của người đó rất oanh liệt. Lịch sử cũng đã từng chứng kiến nhiều gương tự chiến thắng mình của các bậc vĩ nhân, danh nhân như thế. Tôi chỉ kể ra đây một số gương tiêu biểu mà tôi biết.


Trước hết, tôi bắt đầu với sự tự chiến thắng mình của các nhà khoa học, mà điển hình là Réné Descartes. Tôi đến với Descartes bởi vì tôi thích những phát minh về lí thuyết trong ngành toán học của nhà bác học này. Tôi nghĩ ở đây ta cũng nên đề cập sơ qua về sự phát triển quan điểm toán học của các nhà khoa học nói chung và của Descartes nói riêng để biết được các nhà khoa học đã tự chiến thắng mình như thế nào.


Trong toán học, ta hay quen miệng nói cộng (+) là thêm, không ai nói cộng là trừ (–). Nhưng khoa đại số thì ngược lại: cộng cũng là trừ, vì cộng với một số âm là trừ. Tưởng thế là đã quá hay. Nhưng còn đặc sắc hơn: bình phương của một số âm vẫn bằng số dương. Nghĩa là, bình phương của một số dương bằng một số dương là chuyện quá bình thường, mà bình phương của một số âm vẫn bằng một số dương, chuyện tưởng chừng như nghịch lí thì lại không nghịch lí. Như 52 = 25 hoặc (–7)2 = 49 chẳng hạn. Trong thời kì này mà ngành toán học quan niệm được như thế đã là tiến bộ rồi!


Nhưng các nhà khoa học không dừng lại ngang đó mà đã đưa ngành toán học tiến xa hơn: số âm và số dương không còn đóng khung trong từng phạm trù đối lập mà đã hoán chuyển cho nhau: trong âm có dương, trong dương có âm. Bắt đầu từ Descartes. Ông đã đưa ra một số ảo với công thức là y2 = – 1.


Con số này khi mới ra đời thì thật sự không ai tin cả. Bởi vì ai cũng nghĩ bình phương của một số dương phải là số dương, đằng này lại là số âm. Nhưng nhờ công thức y2 = – 1 mà người ta đã giải quyết được quá nhiều vấn đề. Nghĩa là trong tập hợp những số R là số thật, người ta lại có một tập hợp Complete số ảo thì phương trình gì giải cũng được cả. Thí dụ:  = – 25, thường thường chúng ta nói số này là số âm. Nhưng nhờ y2 = –1, nên ta có – 25 = y2 x 25, mà 25 là do một số 52 hoặc   (–5)2.  Như vậy, – 5 = y x 5 rồi tất cả bình phương (– 25 = (5y)2). Vậy  của nó không còn bị bó buộc mà vẫn tiếp tục giải được! Vì sao giải được? Là vì chúng do con người đặt ra nên chúng không có giới hạn. Chính ở điểm này mà tôi cho Descartes đã bắt gặp được tư tưởng Bát-nhã “không tức sắc, sắc tức không” của đức Phật.


Thú thật, hồi còn đi học Phổ thông tôi vốn chẳng thích thú gì môn toán mấy, nên ở đây tôi không dám nói nhiều về toán học. Tôi chỉ sơ lược khái niệm như thế để nói cái tài của nhà bác học Descartes là gì? Là trong khi không ai dám đặt thêm một số ảo thì chính ông lại đặt ra con số ảo đó. Như thế là ông đã thắng!


Descartes thắng như vậy, chúng ta đã nể phục lắm rồi. Nhưng trong ngành khoa học, có một người mà tôi nể phục nhất, đó là Galilée. Ông đã dám tuyên bố một sự thật mà con người trong thời đại ông đa phần trốn tránh và che đậy: giữa lúc ai cũng tin rằng trái đất là vuông và đứng yên thì ông lại quả quyết trái đất là tròn và quay quanh mặt trời.


Đối với lời tuyên bố của Galilée, chúng ta có thể chấp nhận hoặc không. Nhưng với Galilée, thấy được sự thật, tin vào cái thấy sự thật ấy rồi dám tuyên bố, đảm bảo cũng như trách nhiệm về cái thấy và niềm tin ấy là ông đã tự thắng chính ông chứ chẳng phải ông muốn thắng đối với người nghe ông tuyên bố, vì ông đã bất cần chuyện gì sẽ xảy ra với ông sau đó. Như thế là ông đã thắng!


Galilée đã thắng. Ông xứng đáng là bài học tự chiến thắng mình cho chúng ta: Đứng trước một thử thách lớn, người tự chiến thắng mình là người biết tin tưởng vào chân lí của mình, tin vào kết quả tốt mà mình sẽ đạt được rồi không lùi bước.


Có thể nói, trong ngành khoa học có không ít người đã tự chiến thắng mình, nhưng để thắng được như Galilée thì quả thật rất hiếm, nếu chưa muốn nói là ngược lại. Chẳng hạn như ông Abell.


Ông là một nhà toán học kì tài, nhưng ông đã chết quá sớm do ông không tự chiến thắng mình. Chính cái chết của ông đã làm cho nhiều người nuối tiếc, nên trong một số tác phẩm, người ta đã phê bình ông là một “thiên tài ngu ngốc”.


Chỉ vì không kiềm chế được sự tức giận trước một cuộc thách đấu mà ông đã chết, làm hãm sự tiến xa trong ngành toán học của nhân loại. Cho nên tức giận là một điều tai hại mà ta cần phải tránh; cũng như đốm lửa tuy rất nhỏ nhưng có thể đốt cháy tất cả…


Tôi đến với gương tự chiến thắng thứ hai, một nhà Nho ở Trung Quốc, đó là Cừ Bá Ngọc.


Theo một số thuyết kể lại thì ông là người mà suốt đời người ta thấy không có lỗi. Ông cũng là người nổi tiếng trong việc thực hiện lời dạy của Khổng Tử, rằng mọi sự mọi vật luôn vận hành theo đạo trời, do đó bậc quân tử phải luôn tự thức tỉnh lấy mình, không được dừng nghỉ . Hằng ngày, hễ ai hỏi ông: Anh thường làm gì? Ông chỉ nói: Tôi mỗi ngày coi lại ba việc là thờ vua, thờ cha và thờ thầy.


Nhưng để làm được ba việc này thì tôi phải luôn xét lại tâm tôi, bằng cách mỗi ngày tôi thường tự soi bóng mình ba lần trong nước. Để làm gì vậy? Để tôi tự thức tỉnh lấy mình coi đã làm đủ ba việc ấy chưa. Nghĩa là ông tự xem ông thắng mình như thế nào.


Cũng với tinh thần đó, tôi còn nhớ mang máng một chuyện thắng mình tương tự của một vị cổ đức khác, cũng là nhà Nho. Vị này rất thích làm việc thiện nhưng thói quen cứ bắt ông làm việc ác. Ông lập chí không làm ác nữa bằng cách đi chợ mua về hai cái hũ và hai rổ đậu: một rổ đậu đen và một rổ đậu trắng. Hễ ngày nào làm ác thì bỏ vào trong hủ một hạt đậu đen, ngày nào làm thiện thì bỏ vào trong hủ một hạt đậu trắng.


Ngày đầu, hũ đậu toàn đen là đen. Ngày sau khá hơn, nhưng trắng chỉ được một mà đen đến chín. Càng về sau nữa, hũ đậu đen cứ thế ít dần. Cho tới cuối cùng khi thói quen thuần thục rồi thì hũ đậu của ông chỉ còn duy nhất mỗi màu trắng.


Bây giờ tôi nói đến gương tự chiến thắng mình trong Phật giáo.


Có lẽ để tránh một số ngộ nhận đáng tiếc cho rằng Phật giáo cũng chấp nhận sự đấu tranh theo nghĩa tiêu cực, tôi phải nói đến ý nghĩa chiến thắng trong Phật giáo trước. Bởi thông thường khi nói đến chiến thắng thì ai cũng nghĩ ngay đến bên này tiêu diệt bên kia, bên kia thất bại. Nhưng ở đây, ý nghĩa chiến thắng mà đức Phật khám phá chính là làm cho mình trở thành con người khác: từ con người phàm phu trở thành con người của bậc thánh, tức con người của trí tuệ siêu việt.


Chiến thắng như vậy không có sự đối lập giữa người và ta, giữa ta với quân thù; tức không còn có sự đối trị về tâm lí – sự trừ khử, trừ diệt cái xấu. Mà chiến thắng là sự lật lại hai mặt của một vấn đề: Vì vô minh  và giác ngộ tuy như hai đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau, nhưng chúng chỉ nằm cách nhau trong gang tấc.


Cũng như khi đang khát mà ta phải uống một ly nước đục thì điều tiên quyết là ta phải biết cách làm cho nó trong chứ không phải là đổ nó đi. Cũng ly nước đục đó mà làm cho nó từ đục trở thành trong, như thế mới giá trị. Đó là chiến thắng theo quan điểm Phật giáo.


Nói cách khác, chiến thắng trong Phật giáo là chiến thắng cái khổ lụy bị nô lệ bởi ngã chấp và ngã mạn… tức chiến thắng tham dục. Tất cả những yếu tố đó chỉ nằm trong vô minh nên khi nói chiến thắng phiền não cũng đồng nghĩa với chiến thắng vô minh.


Nói rõ hơn, chiến thắng ở đây là đẩy lùi bóng tối vô minh để cho ánh sáng trí tuệ xuất hiện. Cho nên, chiến thắng ma quân chỉ là ngụ ý, chứ kì thật đó chính là sự bừng sáng của ánh đuốc trí tuệ trước bóng tối vô minh.


Nhưng chiến thắng như vậy để làm gì?


Có lẽ ai cũng biết, mục đích duy nhất của Phật giáo là dứt trừ phiền não, giải thoát khổ đau và đạt đến giác ngộ. Để thực hiện được điều đó thì việc tất yếu là phải hàng phục, chế ngự tâm, bởi vì “Tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói năng hay hành động với tâm ô nhiễm thì sự khổ sẽ theo sau như bánh xe lăn theo chân vật kéo.


Ngược lại, nếu nói năng hay hành động với tâm trong sạch, sự an lạc sẽ theo sau giống như bóng theo hình” (Lời Phật dạy, Pháp cú 01). Và như ở phần trước tôi có nói, Phật giáo luôn quan niệm tâm như con vượn, con khỉ, rất khó điều phục. Vẫn chưa đủ, tâm như ma, như tên giặc… Vì vậy, muốn giải thoát thì người tu hành không thể không thắng nó, tức phải hàng phục tâm.


Cách hàng phục tâm trong Phật giáo có rất nhiều, tùy theo căn cơ, trình độ mà mỗi người có thể tự chọn cho mình một phương pháp thích hợp như đếm hơi thở vô ra, quán thân thể là nhơ nhớp, quán tâm là vô thường… Hoặc có những vị dùng những phương pháp đơn giản như ghi nhớ một câu thoại đầu .


Hoặc đơn giản hơn nữa, như có vị thiền sư nói: khi đánh chuông gõ mõ thì mình làm sao đừng bị dính mắc vào các chuyện đó. Có vị khác cho rằng khi làm việc gì thì mình hô to việc ấy, như ăn cơm, mặc áo thì hô: “ăn cơm mặc áo, ăn cơm mặc áo”. Tức vị này muốn nhắc nhở cho chúng ta, trong những thói quen bình thường đó mà mình kiểm soát được thì những lúc ấy là mình đã chiến thắng.


Nói chung, cách chiến thắng của Phật giáo có rất nhiều nhưng không ra ngoài mục đích là để giác ngộ. Và lịch sử cũng đã từng chứng kiến nhiều vị chiến thắng như vậy. Tôi chỉ lựa ra đây vài vị tiêu biểu.


Trước hết là chuyện Thiền sư Thoại Nham.


Vị Thiền sư này hằng ngày năm lần bảy lượt tự gọi tên mình rồi tự mình dạ. Ông gọi: “Thoại Nham ơi?” rồi cũng chính ông trả lời “ơi!”. Ông gọi tiếp “Thoại Nham đâu rồi?” rồi cũng chính ông tự trả lời “tôi đây!”. Ông gọi để làm gì vậy? Ông sợ ông quên mình, đánh mất mình. Ông sợ Thoại Nham của ông ham chơi sẽ bị lạc. Ông cũng sợ bị ma bắt. Ma nào bắt vậy? Ma phiền não. Ông tự gọi tên mình là vậy, chính là để thắng ma.


Lại thắng ma, cũng là cách hàng phục tâm. Tôi đọc Luận Đại Trí Độ của Bồ-tát Long Thọ do HT. Thích Thiện Siêu dịch, trong đó có kể một câu chuyện thắng ma của một vị Bồ-tát khá thú vị: Vị Bồ-tát nọ bị ma bắt nhưng vẫn không chịu thua. Bồ-tát dùng tay trái đánh, bị nó giữ lấy; dùng tay phải đả nó cũng bị nó nắm lấy. Cho đến cuối cùng dùng cả hai chân đá, dùng đầu húc cũng bị nó trói chặt. Nhưng Bồ-tát vẫn không chịu thua. Bồ-tát nói: Ông chỉ thắng được thân ta nhưng không bao giờ thắng được tâm ta.


Đó cũng là hình ảnh tinh tấn ? Đúng thế. Tôi cũng muốn kể thêm một câu chuyện nữa liên quan đến ý nghĩa tự thắng này: chuyện Thiền sư Vĩnh Minh đời Tống.


Thiền sư Vĩnh Minh có một chứng tật bẩm sinh ở chân nên suốt đời tuy Ngài muốn ngồi thiền bằng tư thế kiết già mà không thể làm được. Đến trước giờ thị tịch (mất), Ngài nói với chân: Bấy lâu nay tao đã nô lệ mi, bây giờ mi phải nô lệ tao. Nói rồi Ngài bẻ chân, bắt lên ngồi tư thế kiết-già hoa sen rồi nhắm mắt đi luôn.


Ngài Vĩnh Minh bẻ chân mà không thấy đau, một sự chiến thắng lạ lùng hiếm có. Hồi còn học Trung học Phổ thông, tôi cứ thắc mắc hoài khi đọc chuyện này: Nếu Ngài đã đạt vô ngã như thế, có thể tự chiến thắng mình như thế thì vì sao Ngài không làm việc đó (bẻ chân) từ lúc sinh tiền mà phải đợi đến lúc viên tịch mới làm? Thì ra bây giờ tôi mới ngộ: Nếu lúc sinh tiền mà Ngài bẻ chân, thì toàn thân của Ngài chẳng khác gì cái bình bị bể phải vứt đi, không dùng vào việc gì được nữa!


Từ ý nghĩa tinh tấn này, tôi cũng muốn đến với một gương chiến thắng khác là Ngài Huyền Trang.


Ai cũng biết Ngài là nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa. Ngài nổi tiếng đến độ tên tuổi chẳng những đã đi vào sử sách mà cuộc đời và sự nghiệp còn được Ngô Thừa Ân tiểu thuyết hóa qua tác phẩm Tây du kí mà có lẽ không ai là không biết tới. Ngài đã làm một cuộc thỉnh kinh vô tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại. Cùng nhập Trúc  cầu pháp như Ngài có nhiều vị, nhưng phải nói rằng, sự nhập Trúc của Ngài là vĩ đại nhất và thành công nhất.


Đặc biệt, Ngài đã đi bộ qua sa mạc Gobhi dài trên 500 cây số và vượt dãy núi tuyết cao nhất thế giới Hi Mã Lạp sơn (Himalaya), một việc làm mà từ trước cho đến thời đại Ngài chưa có ai làm được. Ngài làm như vậy vì mục đích gì? Ngoài vì chân lí thì Ngài không còn vì mục đích gì khác.


Trong khi các nhà khoa học đi thám hiểm thế giới hoặc vì chiến lợi phẩm, hoặc vì danh tiếng, thì Ngài không vì gì cả. Mục đích của Ngài không có đối tượng. Nhờ không có đối tượng nên kết quả của việc làm mà Ngài thực hiện không có giới hạn. Nghĩa là Ngài đã để lại cho đất nước Trung Hoa nói riêng và thế giới nhân loại nói chung một tài sản văn hóa vĩ đại.


Ngược lại, cùng làm một việc tương tự như Ngài, Christophe Colomb và Magellan bằng mọi quyết tâm để vượt qua Đại Tây Dương và Thái Bình Dương nhưng cả hai ông chẳng làm thế giới thay đổi.


Và cuối cùng, người mà tôi muốn nói chính là Trần Nhân Tông, một vị vua nhân từ, trung hậu của đất nước Việt Nam. Vị vua này có một nét đặc biệt là vừa thắng mình vừa thắng người theo nghĩa như ở phần đầu tôi có nói. Bởi thế mà trong dòng lịch sử Việt Nam, ông được xem là cột xương sống của triều đại nhà Trần, và trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, ông được xem như là vị Phật của Việt Nam, bởi xuất thân và hành trạng của ông như Phật.


Trước hết, điều mà ta thấy rõ ràng nhất ở ông chính là tài năng: ba lần lãnh đạo toàn dân đại thắng quân Mông Cổ. Sau khi đánh thắng Nguyên Mông, ông nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông rồi lên làm Thái thượng hoàng, sau đó xuất gia ở núi Yên Tử. Tuy không trực tiếp nắm quyền trị nước, lo cho dân, nhưng không lúc nào ông quên nhắc nhở và quan tâm cho dân cho nước.


Bằng chứng tích cực nhất mà bây giờ chúng ta vẫn còn kính nể và thấm ơn là việc xóa đói, giảm nghèo, mở mang bờ cõi nhưng vẫn giữ được chính nghĩa, nêu cao tính nhân bản, dân tộc và từ bi. Chính điểm này mà tôi cho Trần Nhân Tông đã tự chiến thắng mình. Vì sao? Vì ông đã dám bỏ ngai vàng, cái mà con người quí trọng nhất để xuất gia tu tập theo hạnh Phật, sống với Phật như một cách để tìm lại đức Phật nơi chính mình!


Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Cái hay của ông vua này là ở chỗ: ông vừa thắng người vừa thắng mình, thắng cả hai. Nhưng thắng người của ông là để thắng mình. Vì ông quan niệm từ bi rất tích cực: từ bi là phải có trí (trí tuệ), có dũng (anh dũng). Nghĩa là gặp giặc phải đánh. Đánh là vì lòng từ bi mà đánh. Từ bi đó hẳn nhiên không phải đối với giặc mà đối với dân: vì thương dân, vì có trách nhiệm với dân.


Riêng đối với giặc, khi họ đã không còn nghĩ đến hai chữ Đạo Đức thì ta cần phải đánh. Nhưng đánh họ là để cho họ thấy được giá trị của sự thật mà không hề ghét họ, ngược lại còn thương họ. Phải chăng, suy nghĩ ấy của tôi là đúng?


Dù sao đây cũng chỉ là một thể hiện thuần đức tính Từ bi. Bởi một vị vua Phật tử như Trần Nhân Tông thì ông không bao giờ thích chiến tranh, ngược lại, chiến tranh do người khác tạo ra mà mình phải chống đối chỉ là điều bất đắc dĩ. Do đó khi giặc thua ta thì giặc cũng chỉ là những nạn nhân, và cũng có thể là nạn nhân vô tội, bởi họ chỉ vì nhất thời vô minh mà làm nô lệ cho dục vọng. Chính nhờ quan niệm đó nên ông đã tha. Mà tha tức là thắng!


Tha là thắng, một thể hiện của đức tính Từ bi. Tưởng chỉ cần nói ngang đó là đủ, nhưng tôi muốn nói thêm: Phật giáo chẳng những không bao giờ chủ xướng chiến tranh, dùng thù hận để trừ diệt thù hận, mà trái lại, Phật giáo chủ trương, chỉ có từ bi mới trừ diệt được thù hận.


Quan niệm đó của Phật giáo có vẻ như đi ngược lại với thực tế nhưng lại rất hiện đại. Bởi thông thường ai cũng cho rằng, khi mình bị người khác đánh, nếu mình không đánh lại là nhục, là thua. Nhưng thực tế thì nhịn như vậy là thua hay thắng? Điều đó còn tùy vào quan điểm của từng người. Nhưng theo tôi, thua như vậy là thắng. Bởi vì khi mình đánh lại thì mình đã gây hận thù. Mình đánh người ta thì người ta đánh lại, như thế thì bao giờ thù hận mới dứt được!


Hơn nữa, người khác đánh mình, mình không đánh lại mới quý. Bằng ngược lại, người ta đánh mình mà mình đánh lại thì còn gì để nói. Như xưa có một người đến chửi đức Phật. Ngài chỉ lặng thinh mà chẳng nói gì cả. Đợi đến khi anh ta chửi xong, Phật hỏi: Anh có khi nào được người khác đem quà đến tặng không? Anh ta trả lời: Tại sao không. Phật lại hỏi: Người ta tặng quà cho anh, có khi nào anh không nhận không? Người đó trả lời: Đương nhiên là có rồi.


Đức Phật hỏi tiếp: Khi người ta tặng quà, anh không nhận, vậy người đó làm gì? Anh ta gắt: Đương nhiên là người ta phải đem về! Phật nói: Cũng vậy, nảy giờ ông đem toàn những lời thô ác đến tặng Như Lai, Như Lai không nhận thì tự ông đem về.


Hay quá! Tôi đố ai nhẫn nhịn tương tự như đức Phật mà không thắng. Bởi chân lí muôn đời là vậy: Có ai ngữa mặt lên trời phun nước miếng mà không bị nước miếng rơi trở lại vào mặt? Có ai đứng ngược gió tung bụi mà mình thì không bị bụi dính ngược trở lại! Đức Phật biết vậy nên Ngài nhịn khi anh thanh niên kia đến chửi. Phật khác chúng ta là ở chỗ đó.


Bởi vậy trong kinh đức Phật thường nói nhẫn nhục là đạo đệ nhất, là phương pháp thù thắng: Người nào nhẫn được, người đó thắng cả hai; người nào không nhẫn được, người đó bại cả hai. Nhưng để nhẫn dễ dàng hơn thì điều tất yếu phải có lòng từ bi. Bởi nhn như phương thuốc đắng khó nuốt, từ bi như nước đường ngọt giúp nuốt viên thuốc đắng. Và có thắng được hận thù dễ dàng hay không chính là nhờ lòng từ bi vậy.


Nhưng ở đời mấy ai dùng từ bi mà thắng hận thù nhỉ? Ít lắm. Làm sao biết? Bởi từ bi là một đức tính khó làm, chỉ có ý chí lớn mới làm nổi. Chính vì khó làm nên khi làm được thì đó là một hình ảnh sống động và có giá trị thiết thực.


Hết phần một, xem tiếp phần hai