Trang chủ Văn hóa Chùa Việt Nam Chùa Khmer Nam Bộ cổ kính và tinh xảo

Chùa Khmer Nam Bộ cổ kính và tinh xảo

50

Người Khmer sinh tụ ở Nam Bộ rất lâu đời và đã kiến tạo một nền văn hóa rực rỡ. Ngôi chùa là trung tâm sinh hoạt tôn giáo, văn hóa, tinh thần của cộng đồng nên được xây dựng bề thế, trang nghiêm, chạm khắc rất tinh tế với mái cong, nóc nhọn, tháp cao vút, nằm giữa khuôn viên rộng để bà con đến làm lễ, vui chơi.

 

Chùa Khmer Nam Bộ nói chung đều mang kiến trúc Angkor.


Chùa Khmer Nam Bộ nói chung đều mang kiến trúc Angkor của người Campuchia. Chùa có hai cấp sân rộng bao quanh ngôi chánh điện, được tráng xi măng. Mái  có ba cấp, mỗi cấp được chia thành ba nếp, nếp giữa lớn hơn, hai nếp phụ hai bên bằng nhau, không có tháp nóc. Những hàng cột phía ngoài chánh điện được xây dựng theo lối kiến trúc cổ Cô-ranh, phía trên tiếp giáp giữa đầu cột với mái chùa có tượng thần Krud mình người đầu chim, mỏ ngậm viên ngọc với hai tay đỡ mái chùa.

Trước bậc thềm vào chánh điện có hai pho tượng chằn Year hung dữ, mặc áo giáp, đứng bảo vệ ngôi chùa. Tượng chằn hình dáng to lớn, mặt dữ tợn, miệng há rộng, răng nanh to nhọn, tay cầm chày, vốn là biểu tượng cái ác, xấu, gây thương đau cho mọi người. Nhưng tượng chằn đặt trong chùa lại là biểu tượng cái thiện vì người Khmer tin rằng loài vật này được Đức Phật thu phục để phục vụ cho chánh điện, bảo vệ sự bình yên cho dân lành. Cửa vào chánh điện được chạm trổ rất công phu, tinh xảo, kết hợp giữa phong cách nghệ thuật chùa và nghệ thuật chạm khắc dân gian, tạo nên nét độc đáo cổ kính.

Đỉnh cao nghệ thuật thể hiện ở những họa tiết độc đáo nơi mái vòm, tường, các hàng cột và cầu thang, như tượng đầu vị thánh bốn mặt Maraprum là tiền thân của Brahma, vị thần sáng tạo ra thế giới, nữ thần Kayno nửa người nửa chim, chim thần Marakrit. Trên những hàng cột là phù điêu các tiên nữ và quái vật. Theo triết lý của người Khmer, đó là những thử thách đối với phật tử trên bước đường tu thành chánh quả. Trên mái vòm và cầu thang đều chạm trổ họa tiết có thần rắn Naga, vì họ quan niệm rằng tấm lòng từ bi hỷ xả của Đức Phật đã thuần hóa được loài vật nguy hiểm này.

Chùa Dơi đang được trùng tu.


Điểm chung của chùa Khmer Nam Bộ là chánh điện thường quay về hướng Đông, vì họ cho rằng con đường tu hành của Phật đi từ Tây sang Đông. Bên trong chánh điện, du khách choáng ngợp bởi vẻ bề thế và lộng lẫy với nhiều màu sắc, đậm chất văn hoá Khmer, mang nét đặc thù nền tảng của Bà la môn giáo, ảnh hưởng sâu đậm văn hoá Ấn Độ. Trên nóc được trang trí hình ảnh đền Angkor Wat, nơi khởi nguồn của phong cách kiến trúc Khmer. Trong chánh điện có nhiều hình ảnh về quá trình tu hành của Đức Phật từ lúc sinh ra đến lúc khi vào cõi niết bàn. Đối diện chánh điện là các cột trụ với hình tượng thần rắn Naga 5 đầu, dùng để thắp nến vào những ngày lễ hội, tượng trưng cho việc Phật pháp sẽ soi sáng cho nhân loại, giúp mọi người sống hướng thiện như chính loài rắn.

Trải qua tiến trình lịch sử, ngôi chùa có một vị thế rất vững chắc trong đời sống xã hội và tâm thức của người Khmer Nam Bộ. Chùa chính là nơi diễn ra các lễ hội lớn trong năm như: Tết cổ truyền Chôl-chnăm-thmây, lễ Đôn ta, lễ hội Ook-Oom-Bok, cũng là nơi tập trung bà con Khmer đến học chữ Paly, học giáo lý, học nghề…

Đồng bằng sông Cửu Long hiện có rất nhiều ngôi chùa Khmer cổ vài trăm tuổi, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, thu hút rất nhiều khách du lịch. Chùa Dơi được xây dựng năm 1569 với tên khai sinh theo ngôn ngữ Khmer là Sêrây Têchô Mahatúp, gọi theo tiếng Việt là chùa Mã Tộc. Ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer này đã được trùng tu nhiều lần và bị hoả hoạn vào năm 2007, đang được khôi phục trên nền cũ. Ngôi chùa nằm trong một khu vườn rộng khoảng 3 ha, um tùm các loại cây ăn quả như xoài, vú sữa, sầu riêng, măng cụt… Gọi là chùa Dơi vì hàng trăm năm nay, đàn dơi quạ hàng vạn con chọn đây làm nơi trú ngụ. Ban ngày, chúng treo mình trên các cành cây ngủ yên lành, nhiều cây chi chít như lá.

Đàn dơi quạ bay về chùa.


Khoảng tháng 5-8 là mùa sinh sản, mỗi dơi mẹ ôm một dơi con mà ngủ. Đi lại trong chùa phải thật yên tĩnh, một tiếng động mạnh bất thường cũng có thể làm dơi mẹ giật mình, đánh rơi con. Con dơi mới đẻ sải cánh đã dài tới 50 cm, dơi trưởng thành sải cánh khoảng 1 m và nặng xấp xỉ 1,5 kg. Hoàng hôn xuống, chúng thức giấc bay lên, ríu rít gọi nhau, lượn qua lượn lại mấy vòng rồi mới đi kiếm ăn. Có một điều rất lạ là dơi không hề ăn một trái chín nào ở vườn chùa. Chúng tung cánh bay đi xa, kiếm ăn trên những miệt vườn khắp vùng sông Tiền, sông Hậu, để rồi sáng sớm lại trở về ngủ trong vườn chùa. Những cành cây ăn trái của nhà dân ngả sang vườn chùa cũng được đàn dơi tránh, không con nào chịu ngủ trên đó.

Theo sách để lại, họ hàng dơi xuất hiện ở đây từ 200 năm về trước. Dường như chúng đã chọn nơi này làm cửa sinh theo triết lý nhà Phật, vì không bao giờ nhìn thấy một xác dơi chết (không có cửa tử).

Trong khoảng 600 ngôi chùa Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, chùa Dơi nổi lên như một quần thể kiến trúc đẹp vào bậc nhất. Mái chùa gồm hai tầng lớp ngói màu. Phía đầu hồi, bốn đầu mái được chạm trổ tinh xảo hình rắn Naga cong vút. Trên đỉnh chùa có một ngọn tháp nhọn. Hàng cột đỡ bao quanh chùa, mỗi cột có một tượng tiên nữ Kemnar đôi tay chắp trước ngực như đang cất lời đón chào khách. Trong chính điện có một pho tượng Phật Thích Ca bằng đá nguyên khối trên tòa sen cao khoảng hai mét. Ngay từ cổng vào cho đến kiến trúc mái chùa đã cho thấy nét tinh xảo đặc trưng. Những họa tiết vẽ trên cột, trần khu nhà có tượng Phật nằm tuy không nhiều tiểu tiết nhưng cũng đủ mô phỏng tín ngưỡng của người Khmer. Những bức họa lớn do phật tử từ nhiều nơi thực hiện gắn kín các bức tường phía ngoài.

 

Về với đồng bào Khmer Nam Bộ trong dịp tết cổ truyền Chôl-Chnăm-Thmây hay trong các lễ hội nghĩa là đi trong hương hoa, nghe lời cầu kinh, niệm Phật râm ran. Tiếng trống sa-dăm hòa tiếng hát lâm thôn bay xa. Từ người già đến trẻ đều xênh xang áo mới. Các cô gái mặc xà rông sặc sỡ, tay bưng mâm có tấm lụa vàng phủ các lễ vật cúng Phật. Các chàng trai mang đạo cụ phục vụ lễ hội vừa đi vừa múa trống sa dăm rộn rã cả vùng quê. Người Khmer theo đạo Phật (phái tiểu thừa) nên mọi nghi thức lễ hội, đón mừng năm mới đều diễn ra ở các ngôi chùa cổ kính