Trang chủ Quốc tế Công cuộc hoằng pháp tại Hoa Kỳ và những đóng góp của...

Công cuộc hoằng pháp tại Hoa Kỳ và những đóng góp của Phật giáo Việt Nam (Phần 1)

86

1.        Quá Trình Hoằng Pháp tại Mỹ:


Tìm hiểu lịch sử Phật Giáo Mỹ chúng ta có thể tạm thời chia làm ba giai đoạn: giai đoạn du nhập trước năm 1879, giai đoạn hình thành từ năm 1879 đến năm 1963, và giai đoạn phát triển từ năm 1963 đến nay.


1.1     Giai đoạn du nhập trước năm 1879:


Ðất nước hoa Kỳ là một xứ sở trẻ trung, được lập quốc vào năm 1776. Phật Giáo đã có mặt tại đây ngay trong những ngày trước khi người da trắng biết đến đại lục này. Những tư liệu về người đầu tiên đã mang Ðạo Phật đến Hoa Kỳ không có nhiều. Tuy nhiên có một sự kiện đáng ghi nhớ. Năm 1761, ông M. de Guignes, một học giả người Pháp đã phiên dịch và phổ biến một tài liệu trong văn khố Trung Quốc về một Tỳ Kheo người Hoa tên là Hwui Shan cùng bốn vị sư khác đến Châu Mỹ năm 458. Ðến năm 1875, Charles G. Leland xuất bản cuốn “Fu-sang on the Discovery of America by Chinese Buddhist Priests in the Fifth Century” (Fu-sang về Việc Khám Phá Châu Mỹ bởi Các Tăng Sĩ Phật Giáo Người Hoa trong Thế Kỷ Thứ Năm) ủng hộ quan điểm của Guignes. Năm 1885, Edward Payson Vining xuất bản cuốn “An Inglorious Columbus” (Một Columbus không được vinh danh) hay “Evidence that Hwui Shan and a Party of Buddhist Monks from Afghanistan Discovered America in the Fifth Century A.D.” (Bằng Chứng về Hwui Shan và Các Tăng Sĩ Phật Giáo từ Afghanistan đã Khám Phá Châu Mỹ vào Thế Kỷ Thứ Năm sau Công Nguyên). Tác giả trích dẫn tài liệu báo cáo của Tỳ Kheo Hwui Shan với chi tiết cuộc hành trình đến Châu Mỹ, về nếp sống của dân bản xứ, về đời sống cá nhân, gia đình, xã hội, tập quán, tín ngưỡng và kết luận: “Trước đây quốc độ này không biết gì về Phật Giáo, nhưng vào triều nhà Tống năm 458, có năm vị sư từ nước Ki-pin (Kabul, Afghanistan) đã du hành sang nước ấy, mang theo kinh điển, hình tượng và giáo hóa dân chúng quy y theo Phật, từ bỏ thói hư tật xấu.” Vết tích của công cuộc hoằng pháp này được tìm thấy năm 1914 về tảng đá có chạm hình chữ Vạn tại Lakeside Mountains, gần thung lũng San Jacinto, California. Năm 1953, Gordon Ekholm viết bài biên khảo về những tương đồng giữa nghệ thuật Phật Giáo, Ấn Ðộ và Mexico như bệ đá tòa sen, bình bát, mặt trời, rồng, rắn.. Những biểu tượng này xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ năm, thời điểm mà vị sư Trung Hoa có mặt tại Tân Thế Giới.


Năm 1826, Eugene Bournouf soạn cuốn Essai sur le Pali (Văn Phạm Pali), dịch Kinh Diệu Pháp Liên Hoa sang tiếng Pháp. H.D. Thoreau (1817-1862) dịch Kinh Pháp Hoa từ tiếng Pháp sang tiếng Anh. Sau đó nhà Ấn Ðộ Học người Hà Lan, ông Kern, đã nghiên cứu và dịch Kinh Pháp Hoa từ nguyên bản tiếng Sanskrit sang tiếng Anh. Ngoài ra những tác phẩm dịch thuật của The Sacred Books of the East (Thánh Thư Phương Ðông) do Max Miller chủ biên, đã gây những ảnh hưởng lớn trong giới trí thức trong việc tìm hiểu văn hóa Á Ðông.


Vấn đề giao lưu giữa Âu Châu và Á Châu có thể bắt nguồn từ xa xưa qua những chuyến buôn bán theo đường tơ lụa, cuộc viễn chinh của Alexandre the Great cho đến chuyến du hành của Marco Polo ở thế kỷ thứ mười ba. Phương Ðông luôn luôn là thế giới huyền bí hấp dẫn. Nhưng từ thế kỷ thứ mười lăm trở đi người Tây Phương đến Á Châu thường xuyên hơn. Họ đến với hai mục đích là chiếm thuộc địa và truyền đạo. Năm 1497, Vasco de Gama đến Ấn Ðộ. Sau đó là đoàn quân xâm lược, các giáo sĩ, thương gia đến Á Châu với huyền thoại “Khai Hóa”. Phật Giáo bị xuyên tạc và được nhìn như một tôn giáo ma quỷ. Bồ Ðào Nha chiếm Tích Lan năm 1501 cùng với các giáo sĩ. Họ chủ trương: “Trước hết dùng hình thức giảng đạo để chuyển hóa, nếu không thành công dùng gươm đao.” Kết quả họ đã chém giết dân Sinhalese dã man, đốt phá các tự viện Phật Giáo thành tro bụi. Hà Lan thay thế Bồ Ðào Nha ra đạo luật cấm những người không rửa tội, không được sở hữu tài sản đất đai.


Năm 1549, Francis Xavier đến Nhật. Một hôm ông đến chùa gặp thiền sư Nanjo, một vị sư thông thái và hài hước. Thấy các sư đang thiền, Xavier hỏi: “Các sư đang ngồi nghĩ chuyện gì?” Sư đáp: “Một số đông chúng tôi ngồi tính nhẩm tháng qua nhận được bao nhiêu tiền cúng dường, một số khác tính toán xem mua sắm ở đâu giá rẻ, một số khác nữa tìm kiếm nơi du hí. Nghĩa là họ nghĩ chuyện không đâu!”  Người Pháp cũng đã đưa quân đến Việt Nam năm 1858 với danh nghĩa bảo vệ các nhà truyền giáo Thiên Chúa và đã đô hộ Việt Nam gần cả trăm năm.


Ngoài những động cơ chiếm đất thuộc địa với những tài nguyên phong phú của các nước Á Châu, tính cách huyền bí và nền văn minh sáng chói của các xứ này cũng là động lực hấp dẫn. Sau đó họ đã khám phá Phật Giáo như một giáo thuyết giác ngộ giải thoát. Những nghiên cứu dịch thuật của các học giả Âu Châu đã khiến Phương Tây thần tượng nền văn hóa Phương Ðông. Họ tìm hiểu văn hóa Á Châu với ba mục đích:


1.       phục vụ cho mục đích cai trị,


2.       phục vụ cho mục đích truyền đạo,


3.       đáp ứng nhu cầu tâm linh vì không thỏa mãn với văn hóa Tây Phương.


Học giả Thomas Rhys Davids la` người nổi tiếng về những nghiên cứu dịch thuật văn học Pali. Lúc đầu có mục đích dịch các văn kiện luật lệ phục vụ cho chính quyền thuộc địa, nhưng sau đó ông đã khám phá ra kho tàng kinh điển Pali. Ông ta cũng là người đã sáng lập The Pali Text Society (Hội Nghiên Cứu Pali) năm 1881 và Hội đã phiên dịch toàn bộ Tam Tạng Kinh Ðiển Pali sang tiếng Anh.


Cho mục đích truyền đạo, chúng ta thấy có những tác phẩm xuyên tạc Phật Giáo như “Phép Giảng Tám Ngày” của giáo sĩ dòng Tên Alexandre de Rhodes đã nhục mạ các tôn giáo Ðông Phương như Phật, Khổng và Lão. Nhưng sau đó cũng có những tác phẩm nghiêm túc như: La Traité de la Grand Sagesse (Ðại Trí Ðộ Luận) do giáo sĩ dòng Tên Etienne Lamotte dịch từ nhiều bản ngôn ngữ khác nhau như tiếng Sanskrit, tiếng Hoa, tiếng Tây Tạng, tiếng Nhật.. sang tiếng Pháp trong vòng ba mươi năm, tập đầu xuất bản năm 1949 và tập cuối cùng năm 1979. Lúc ban đầu dĩ nhiên giáo sĩ Lamotte nghiên cứu Phật Giáo không phải để xiển dương Phật Pháp, nhưng mục đích để tìm cách đánh đổ giáo lý nhà Phật và tuyên dương thần học Thiên Chúa. Dần dần những tư tưởng giác ngộ giải thoát của Phật Giáo đã chuyển hóa ông ta từ lúc nào. Tác phẩm này được dịch thuật hết sức công phu và chuẩn xác. Ngoài ra ông còn có những công trình nghiên cứu về lịch sử Phật Giáo Ấn Ðộ. Trong giới nghiên cứu Phật Học tôn xưng ông là tái sinh của một vị Bồ Tát.


Những tác phẩm này đã ảnh hưởng sâu đậm trong giới trí thức, nhất là trong lãnh vực triết lý. Bắt đầu với Arthur Schopenhauer (1788-1860) chịu ảnh hưởng triết học Phật Giáo về Dục. Sau đó là những triết gia khác như Bergson, nhà văn hóa Helena Blavatsky, Rickert, Jaspers, Wittgenstein, Heidegger..


Trong giai đoạn này, Phật Giáo được chấp nhận như một tôn giáo của trí tuệ và khoa học mà sự ra đời của thi phẩm Light of Asia (Ánh Sáng Á Châu) năm 1879 đánh dấu sự thành tựu văn học lớn lao khi Phương Tây bắt đầu tiếp xúc với Phật Giáo và Phật Giáo trở thành nguồn cảm hứng tâm linh phong phú cho người đương thời.


1.2.  Giai Ðoạn Hình Thành từ 1879 đến 1963:


Dưới đây là những sự kiện ảnh hưởng mạnh đến công cuộc hoằng pháp tại Tây Phương: những hoạt động của Ðại Tá H. Olcott, công trình phiên dịch kinh tạng Pali sang tiếng Anh, nổ lực Mỹ hóa đạo Phật của Paul Carus và công trình hoằng pháp của thiền sư D.T. Suzuki.


1.2.1. Những hoạt động của Ðại Tá Henry Olcott:


Ông sinh năm 1832 tại New Jersey và mất năm 1907 tại Adgar, Ấn Ðộ. Ông là người có công trong việc hoằng pháp tại Hoa Kỳ, chấn hưng Phật Giáo Tích Lan và đóng góp nhiều công sức trong việc phục hưng Phật Giáo tại các nước Á Châu khác. Năm 1875 ông cùng bà Helena Blavatski thành lập Hội Thông Thiên Học (The Theosophical Society) để học hỏi Phật Pháp cùng các tôn giáo khác và khoa học. Ngày nay Hội trở thành một hội quốc tế với chi nhánh trên 60 quốc gia.


Năm 1880 ông cùng bà Blavatski sang Tích Lan. Lúc đó chính quyền thực dân Anh đang tìm cách khống chế Phật Giáo và các đoàn truyền giáo ngoại quốc đang tìm cách Thiên Chúa Giáo hóa Tích Lan. Trước tình thế đó, cả hai nguyện sẽ làm cái gì để cứu vãn Phật Giáo Tích Lan. Năm 1881 ông và bà Blavatski quy y Tam Bảo. Buổi lễ thật cảm động dưới sự chứng minh của hàng ngàn vị tăng. Ðiều này đã hổ trợ tinh thần mạnh mẽ cho dân Tích Lan trong công cuộc chấn hưng Phật Giáo. Sau đó hai người đã đi khắp các làng quê kêu gọi thành lập trường học Phật Giáo, nhà xuất bản.. Ông cũng vận động thành lập các trường học Phật Giáo tại các nước khác như Nhật Bản, Thái Lan, Miến Ðiện Ấn Ðộ.. Ông vận động phục hồi lễ rước kiệu Phật trong ngày Phật Ðản, trùng tu chùa chiền. Phật Giáo Tích Lan nhờ thế đã phục hồi trong thời gian ngắn. Năm 1891 ông cùng Ðại Sư Anagarika Dharmapala thành lập hội Mahabodhi để phục hưng Phật Giáo Ấn Ðộ. Với sự hổ trợ của nhiều trí thức người Anh, trong đó có thi hào Edwin Arnold, vận động với chính quyền để yêu cầu trả lại những Phật tích đang nằm trong sự cai quản của một giáo phái Ấn Ðộ.


Năm 1889, ông cùng Thượng Tọa Sumangala, phỏng theo sáu màu hào quang của Ðức Phật đã phác họa ra cờ Phật Giáo. Cờ này được Tích Lan công nhận làm giáo kỳ. Ðến năm 1950 tại Ðại Hội Phật Giáo Thế Giới (The World Fellowship of Buddhist) lần đầu tiên tổ chức tại thủ đô Columbo, Tích Lan với sự tham dự của 26 nước, lá cờ này được công nhận là cờ Phật Giáo Thế Giới. Phái đoàn Phật Giáo Việt Nam do Hòa Thượng Tố Liên lãnh đạo là sáng lập viên.


Ông mất năm 1907 tại Adgar, Ấn Ðộ, hưởng thọ 75 tuổi. Suốt 38 năm ròng rã ông đã bỏ hết thời giờ của mình cho công cuộc phục hưng Phật Giáo tại Tích Lan và các nước Á Châu khác.


1.2.2. Việc phiên dịch kinh tạng Pali sang tiếng Anh:


Công việc phiên dịch này do Hội Nghiên Cứu Pali (The Pali Text Society) đảm trách. Hội được thành lập năm 1881. Hội trưởng là ông T. W. Davids. Hội đã quy tụ được nhiều học giả Pali và tiến hành công cuộc dịch thuật. Sau khi ông Davids qua đời, vợ ông đảm nhận chức vụ hội trưởng và tiếp tục công cuộc nghiên cứu và dịch thuật. Ngày nay tạng kinh Pali đã được dịch sang Anh ngữ. Những kinh sách bằng tiếng Anh này đã giúp cho giới trí thức phương tây có phương tiện đi sâu vào giáo lý Phật Ðà.


1.2.3. Nổ lực Mỹ hóa đạo Phật của Paul Carus (1852-1919):


Paul Carus là một Phật tử gốc Ðức, con của một mục sư Tin Lành. Sau khi tốt nghiệp tiến sĩ ngôn ngữ học, ông ta thất vọng và mất niềm tin với truyền thống Cơ Ðốc Giáo. Ông sang Mỹ và sống tại New York, giúp việc cho một tờ báo tiếng Ðức. Năm 1893 tại Ðại Hội Tôn Giáo Thế Giới (The World Parliament of Religions) tổ chức ở Chicago, Paul Carus có cơ hội tiếp xúc học hỏi với các cao tăng thạc đức Phật Giáo, ông ta đã khám phá đạo Phật và từ đó đã phụng sự đạo Phật với tất cả lòng hăng say và nhiệt thành của mình. Với ông Phật Giáo là con đường đúng đắn để phát triển tâm linh, là tôn giáo dựa vào lý trí, thực nghiệm và khoa học. Năm 1894, Carus sáng tác Gospel of Buddha (Phúc Âm của Phật) và Karma (Nghiệp) với mục đích hiện đại hóa đạo Phật và đem đạo Phật hòa vào văn hóa tư tưởng Tây Phương. Với 38 tác phẩm ông đều nhắm đến mục đích chứng minh cho người Tây Phương thấy giá trị của đạo Phật trong vấn đề đáp ứng nhu cầu tâm linh mà người Tây Phương đang cần đến.


Năm 1899, Paul Carus đã viết cho Daniel C. Beard, giáo sư mỹ thuật tại New York, đề nghị tạc một pho tượng Phật với đức tính từ bi độ lượng của Á Ðông và với đặc tính giản dị, sống động của nghệ thuật Tây Phương. Carus dùng âm nhạc Victorian để soạn kịch, sám nguyện Phật Giáo cho các buổi lễ. Carus đã không ngần ngại sử dụng những hình thức Cơ Ðốc Giáo quen thuộc với người Tây Phương để chuyển tải triết lý và phương pháp tu trì của đạo Phật. Ông nhìn thấy bản tính Ðức Phật A Di Ðà của Tịnh Ðộ Tông có thể thay thế hình ảnh Thượng Ðế hữu hình: “A Di Ðà là trật tự thế giới, là chân lý tuyệt đối có thể điều hành luật tiến hóa..” Trong ước muốn phổ cập đạo Phật với quần chúng Hoa Kỳ, ông đã bảo trợ cho đại sư Dharmapala sang Hoa Kỳ hoằng pháp trong nhiều năm, cũng như hổ trợ công cuộc hoằng pháp của thiền sư D.T. Suzuki.


1.2.4. Công cuộc hoằng pháp của thiền sư D.T. Suzuki (1870-1966):


Thiền sư Suzuki đến Mỹ năm 1897, tá túc tại nhà Paul Carus 11 năm. Hai người đã hợp tác phiên dịch nhiều kinh sách sang tiếng Anh và tiếng Nhật. Giới thiệu tư tưởng Ðông Phương và Phật giáo đến với giới trí thức Phương Tây. Năm 1911, Suzuki thành hôn với Beatrice Erskine Lane, hội viên Hội Thông Thiên Học. Hai vợ chồng hợp tác nhau xuất bản đặc san The Eastern Buddhist (Phật Tử Phương Ðông). Suzuki viết nhiều sách về Thiền, phiên dịch các kinh điển Ðại Thừa. Những tác phẩm của ông ta như những luồng gió mát, đem lại những sinh khí mới cho giới trí thức phương Tây. Trong thế kỷ 19, Âu Mỹ biết nhiều đến Phật Giáo Nam Truyền nhờ sự phiên dịch kinh Pali của Hội Pali Text Society, còn sự hiểu biết về Ðại Thừa rất khiêm nhường vì chỉ có vài cuốn kinh được dịch ra ngôn ngữ Âu Châu mà thôi. Do đó khi những cuốn sách của Suzuki viết về Thiền, cũng như Phật Giáo Bắc Truyền đã đưa tâm thức Tây Phương tiếp xúc với chân trời mênh mông của Ðại Thừa. Tinh thần phóng khoáng, tự do, vô chấp, giải thoát của Thiền đã gây hứng thú kinh ngạc cho độc giả Âu Mỹ, giúp họ tìm thấy lối thoát trong sự khủng hoảng của triết học và thần học Tây Phương trước sự phát triển của khoa học. Những cuốn sách của Suzuki rất được mọi giới trân trọng và tạo nên một phong trào học Thiền trong những thập niên 50 và 60. Danh từ Zen (Thiền) được Suzuki giới thiệu và trở thành danh từ phổ biến đồng nghĩa với chữ Phật Giáo vì người Tây Phương khi nói đến Phật Giáo người ta chỉ biết đến Thiền. Suzuki giảng dạy Phật Pháp và Thiền tại Ðại Học Columbia và nhiều trường đại học khác, gây ảnh hưởng rất mạnh với Carl Jung, Kaen Honey, Erich Fromm, Martin Heidegger, Thomas Merten, Allen Watts, Jack Kerouac, Allen Ginsberg, Gary Snyder. Lynn White Jr., một sử gia, đã tán dương Suzuki là người đã giúp Tây Phương phá vỡ bức thành ngăn cách, vượt qua những hạn hẹp khu vực để phóng tầm nhìn ra chân trời bao la của thế giới.


Trong giai đoạn này, người Tây Phương đã tiếp xúc với Phật Giáo qua kinh điển. Nhiều kinh sách Nam Truyền và Bắc Truyền đã được phiên dịch. Những tư tưởng thâm sâu của triết học Phật Giáo đã làm cho người Tây Phương sửng sờ thích thú. Trên phương diện trí thức có thể nói Phật Giáo đã ảnh hưởng đến văn hóa Tây Phương trên nhiều phương diện từ văn chương đến khoa học nghệ thuật. Ngoài những triết gia chịu ảnh hưởng tư tưởng Phật Giáo, chúng ta còn thấy những tác phẩm văn học đã xuất hiện. Sự ra đời của tác phẩm văn học đoạt giải thưởng Nobel “Sidhartha” cuả Herman Hesse đánh dấu ảnh hưởng tư tưởng Phật Giáo như một nguồn cảm hứng cho sáng tác nghệ thuật.


Cũng trong giai đoạn này, sự kiện những công nhân Trung Hoa sang làm đường xe hỏa tại Mỹ cho công ty Central Pacific từ những năm 1860 đã góp phần không nhỏ vào công cuộc hoằng pháp tại đây.


1.3.  Giai Ðoạn Phát Triển từ 1963 đến nay:


Dấu mốc 1963 là một thời điểm quan trọng bắt đầu giai đoạn phát triển của Phật Giáo tại Hoa Kỳ. Năm 1963 có một sự kiện làm thế giới bàng hoàng xúc động, đó là sự tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Ðức tại Sài Gòn để cầu nguyện cho hòa bình và công bằng xã hội. Hình ảnh một vị sư ngồi kiết già an nhiên tự tại trong ngọn lửa hồng, đã chứng minh sức mạnh nội tâm của đạo Phật và đã chấn động lương tri nhân loại. Thế giới bắt đầu phản tỉnh.


Cuộc chiến tại Việt Nam càng ngày càng khốc liệt, những hình ảnh tang thương của chiến tranh đã gây nên phong trào phản chiến khắp nơi tại Hoa Kỳ. Kèm vào đó sự khủng hoảng về văn hóa, đạo đức, tâm linh tại Tây Phương trước sự phát triển của khoa học với sự nổi loạn của phong trào sinh viên, phong trào hippies trong những thập niên 60 chống đối lại những giá trị cổ điển, chống đối lại quyền lực xã hội đương thời trong ước muốn xây dựng một trật tự xã hội mới. Những cuộc cách mạng của giới trẻ thực hiện trong những cuộc biểu tình phản chiến tại Woodstock, tiểu bang New York cũng như khắp nơi trên nước Mỹ; phong trào nhạc trẻ với ban nhạc Beattles chịu ảnh hưởng đạo học Ðông Phương đã làm thay đổi tận gốc rễ xã hội Hoa Kỳ. Trước những xáo trộn xã hội, tâm trạng hoang mang cùng cực của con người, những giá trị đạo đức đảo lộn, những giáo điều bị sụp đỗ, đạo Phật có mặt như một giải đáp cho những nan đề đó.


1.3.1. Các vị đạo sư:


Cũng trong thời gian đó, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng đã rời thủ đô Lhasa năm 1959 cùng với mấy trăm ngàn dân Tây Tạng sang tỵ nạn tại Ấn Ðộ. Sự có mặt của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma và chư tăng Tây Tạng đã đóng góp tích cực cho sự phát triển đạo Phật tại Phương Tây.


Chưa bao giờ mà nước Mỹ có nhiều bậc đạo sư phương Ðông, nhiều cao tăng thạc đức Phật Giáo đến giảng dạy như giai đoạn này. Các vị như: Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Hòa Thượng Tuyên Hóa, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, Thiền Sư Sungsan.. Trong giai đoạn này chú tâm nhiều vào sự tu tập. Rất nhiều trung tâm tu tập được thiết lập lên khắp nơi với những khóa tu từ một hai ngày đến hàng tuần, hàng tháng hay nhiều năm liên tục. Nếu trong giai đoạn trước đạo Phật được biết đến trên phương diện kiến thức thì giai đoạn này Phật tử Mỹ đã chú trọng vào sự thực tập.


Sự tu tập Phật Giáo không những đem lại sự an vui giải thoát cho mai hậu, và đem lại an lạc cho cuộc sống hiện tại. Cuộc sống tại Mỹ quá căng thẳng do đó những khóa tu đã đem lại sự thư giản, quân bình cho đời sống tâm lý, con người cảm thấy lạc quan hơn và tỉnh táo hơn sau những khóa tu, cũng như cảm nhận được những niềm vui sâu sắc trong lúc thiền tập. Vì lẽ đó mà những trung tâm tu tập lúc nào cũng đông người tham dự. Những áp dụng thiền tập vào khoa tâm lý trị liệu càng ngày càng phổ biến và đã mang lại những kết quả khả quan. Có những bệnh viện đã áp dụng thiền tập để chữa trị nhưng bác sĩ không nói đó là thiền vì muốn tránh đi những thành kiến tôn giáo trở ngại cho công cuộc điều trị.


1.3.2  Giới Trẻ:


Ðạo Phật hấp dẫn giới trẻ Hoa Kỳ với nhiều lý do:            Không thỏa mãn với truyền thống tôn giáo cố hữu              Tinh thần tự do, phóng khoáng, khoan dung của đạo Phật                                                                            Các nhạc sĩ đã dùng phương tiện âm nhạc để quảng bá đạo Phật.                                                                                  Những phim ảnh của Hollywood đã thực hiện về những đề tài Phật Giáo: Little Buddha, Seven Years in Tibet, Kundun..                                                                  Những ca sĩ nổi danh, các tài tử thượng tặng là những Phật tử thuần thành như: Richard Geere, Tina Turner..                       Ảnh hưởng của những vụ loạn dâm của các linh mục.


1.3.3. Từ Thiện Xã Hội: 


Ðạo Phật Hoa Kỳ đã nhập thế với những hoạt động xã hội như:                                                                                        The Buddhist Alliance for Social Engagement (Liên Hội Phật Giáo Phụng Sự Xã Hội): các thiện nguyện viên làm việc trong các bệnh viện, nhà tù, giúp người vô gia cư..                                                           Greyston Mandala: đuợc thành lập bởi thiền sư Bernard Glassman tại thành phố New York để giúp những người vô gia cư. Họ có những lò bánh mì để tạo công ăn việc làm, những khu nhà cho người vô gia cư trú ngụ..                                                                              Zen Hospice Project: giúp những người sắp qua đời được chết trong bình an.


1.3.4. Ðào Tạo:


Ý thức rằng công việc truyền thừa là nhiệm vụ quan trọng trong việc duy trì và Phát huy Phật Giáo tại Hoa Kỳ. Các truyền thống đều có những chương trình đào tạo, nhưng chỉ có tính cách nội bộ. Có một vài trung tâm có những chương trình đào tạo quy mô:


–    Barre Center for Buddhist Studies: tổ chức mỗi năm hai tuần tu học.


–    Ngoài ra còn có Ðại Học Phật Giáo Naropa tại Boulder, tiểu bang Colorado; Ðại Học Phật Giáo Tây Lai Tự ở Los Angeles, California; Ðại Học Phật Giáo Dharma Realm University tại Talmage, California; Phật Học Viện Làng Mai, Pháp. Các đại học lớn của Mỹ như Harvard, Yale, Columbia, Berkeley, Wisconsin.. đều có chương trình Phật Học.


Trong giai đoạn này đạo Phật thật sự bén rễ vào xã hội Hoa Kỳ. Các truyền thống Phật Giáo đều có mặt tại Mỹ với những đóng góp tích cực trong công cuộc hoằng truyền Phật Pháp. Ngoài những cộng đồng người Hoa, còn có các cộng đồng Á Châu khác của người Nhật, Tây Tạng, Việt, Thái, Lào, Cam Bô Chia, Miến Ðiện, Tích Lan, Triều Tiên.. với những sinh hoạt cá biệt đã làm cho Phật Giáo Mỹ có những màu sắc phong phú.


2.     Kinh Nghiệm Hoằng Pháp của Các Truyền Thống Phật Giáo tại Hoa Kỳ:


2.1   Truyền Thống Theravada:


Nam Truyền Phật Giáo đã đến Hoa Kỳ rất sớm. Năm 1893 Ðại Sư Anagarika Dharmapala đã đến Hoa Kỳ hoằng pháp cho đến đầu thế kỷ 20. Tuy có những thuận duyên như kinh tạng Pali đã được dịch sang tiếng Anh, nhưng sau ngài Dharmapala công cuộc hoằng pháp bị gián đoạn vì thiếu các sư thông thạo Anh ngữ sang hoằng hóa.


Mãi đến năm 1966, The Buddhist Vihara Society of Washington được thành lập. Sau đó các chùa Thái, Miến Ðiện, Tích Lan lần lượt được thành lập. Thiền viện Stillpoint (Tịnh Ðiểm) do một thanh niên người Mỹ thành lập tại San Jose, California năm 1971.


Thiền Vipassana (Minh Sát) đến Mỹ năm 1980 do những người học trò của Thiền Sư Mahasi Sayadaw khởi xướng. Chủ trương không chú trọng nhiều đến hình thức sinh hoạt của Nam Tông như: nghi lễ, tụng kinh, giảng dạy, làm phước.. nhưng chú trọng vào hành thiền để giúp ngườI bớt căng thẳng, khổ đau, thêm tự tin, tăng trí tuệ. Nhóm này do những thiền sư cư sĩ chủ trương. Họ thoát ra khỏi hình thức của Phật Giáo Nam Tông để hoạt động độc lập, chú trọng đến cư sĩ. Có những trung tâm lớn như:


–    The Insight Meditation Society (IMS) tại Barre, Massachusetts, do Joseph Goldstein, Jack Kornfield, Sharon Salzberg điều hành. Trung tâm tổ chức những khóa tu quanh năm, muốn tham dự phải ghi tên và đóng lệ phí trước cả nửa năm vì quá đông người tham dư.


–    Spirit Rock Meditation Center tại Marin, California: đây là chi nhánh của IMS, do Jack Kornfield, James Baraz, Sylvia Boorstein và Anna Douglas.


–    Vipassana Center của S.N. Goenka tại Shelburne Falls, Massachusetts. Trung tâm này thường xuyên tổ chức khóa tu 10 ngày với những kỷ luật khắc khe. Thực tập nhiều hơn giáo lý. Chủ trương không xen lẫn trong sự thực tập với những phương pháp thiền khác.


Sau chiến tranh Việt Nam, những cộng đồng Ðông Nam Á di cư đến Mỹ ngày càng nhiều do đó những ngôi chùa đã được thành lập để phục vụ nhu cầu tín ngưỡng. Trên toàn nước Mỹ có khoảng 100 chùa Nam Tông do các Phật tử Thái, Miến Ðiện, Tích Lan, Lào, Kam Pu Chia thành lập.


Vì những khắc khe trong vấn đề hành trì nên Phật Giáo Nam Truyền không tồn tại được trong một địa phương không có một cộng đồng Phật Giáo hổ trợ. Do đó tuy đến Mỹ rất sớm nhưng không duy trì và phát triển được. Các sư Nam Tông cũng rất khó khăn trong vấn đề đi lại vì giới luật Nam Tông không cho phép các sư tự nấu ăn, lái xe.. Những người như Jack Kornfield vốn là tu sĩ tại Thái Lan trước đây, nhưng khi về lại Hoa Kỳ không thể tiếp tục được cuộc sống xuất gia, đành phải hoàn tục. Ông cùng với những cư sĩ khác hoạt động Phật sự độc lập với truyền thống Nam Tông.


2.2 Truyền Thống Trung Hoa:


Năm 1848 khi vàng được tìm thấy tại San Francisco, người Trung Hoa đã sang Mỹ để làm phu mỏ. Từ năm 1860 đến cuối thế kỷ có khoảng 63 ngàn công nhân Trung Hoa để làm việc cho công ty đường sắt. Thế hệ của những người Hoa đầu tiên này vì nhớ quê hương đã thành lập mấy trăm ngôi chùa nhỏ nơi họ sinh sống để làm nơi nương tựa về tâm linh. Những ngôi chùa này sau đó đã không duy trì được. Ngày nay chỉ còn một vài ngôi còn tồn tại ở thành phố San Francisco. Lý do:


–    Không có sư trụ trì bảo quản và duy trì
–    Vì ngôn ngữ bất đồng do đó không có Phật tử bản địa tiếp nối

–    Phật Giáo bị kỳ thị

–    Thế hệ trẻ không được giáo dục về Phật Giáo và bị Mỹ hóa

–    Chùa chỉ chú trọng về tín ngưỡng, thiếu phần tu học


Tuy tín tâm của người Hoa rất mạnh và ý thức về truyền thống vững chãi, nhưng thế hệ của đợt di cư đầu tiên của người Hoa không thành công trong việc duy trì văn hóa tín ngưõng của mình. Nhưng từ sau năm 1949, đợt di cư thứ hai gồm những người có tài sản và học thức. Họ xây dựng những ngôi chùa lớn có tăng ni hướng dẫn, tổ chức những khóa tu học cho người lớn và trẻ em. Chùa Tây Lai ở California có Ðại Học Phật Giáo, Vạn Phật Thánh Thành có Ðại Học Dharma Realm University, Chùa Chuang Yen ở tiểu bang New York đã đưa Ðại Tạng Kinh vào CD-ROM.


Bác sĩ Paul Fung thành lập Giáo Hội Phật Giáo Phổ Ðồng (Buddha’s Universal Church) tại San Francisco năm 1963. Chùa dạy giáo lý song ngữ, có ban hợp ca và sinh hoạt thanh thiếu niên.


Charles Luk (1898-1978) đệ tử Ngài Hư Vân, vâng lời chỉ giáo của sư phụ, đã dịch kinh từ tiếng Hoa sang tiếng Anh suốt 20 năm từ 1956 đến 1976.


Các danh tăng đương thời như:


–    Hòa Thượng Tuyên Hóa (1908-1985): đệ tử Ngài Hư Vân, chủ trương Thiền Tịnh song tu. Thành lập Vạn Phật Thánh Thành, dịch nhiều kinh điển sang tiếng Anh và độ cho nhiều người Mỹ xuất gia.  Ngoài ra có các ngài khác cũng thường xuyên sang Mỹ hoằng hóa như Hòa Thượng Tinh Vân, Hòa Thượng Thánh Nghiêm..  Tổng số người Hoa tại Mỹ khoảng một triệu người với 150 ngôi chùa.


2.3.  Truyền Thống Nhật: 


2.3.1. Thiền:


Thiền sư Soyen Shaku đến Hoa Kỳ năm 1893 dự Hội Nghị Tôn Giáo tại Chicago và bắt đầu cuộc hoằng hóa. Sau đó có các thiền sư khác tiếp tục như: Shinryu Suzuki, Sogaku Harada.. Những nổ lực của các thiền sư Nhật đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong đời sống tín ngưỡng của Hoa Kỳ. Thiền sư D.T. Suzuki với những tác phẩm về Thiền đã chinh phục giới trí thức Mỹ và gây nên phong trào tu học Thiền trong những thập niên 50 và 60. Sau những thế hệ thiền sư Nhật, các đệ tử ngườI Mỹ đã duy trì và phát triển các trung tâm thiền đó. Hiện nay khắp nước Mỹ có khoảng 150 trung tâm thiền.


Thiền sư Taizan Maezumi lãnh đạo trung tâm thiền ở Los Angeles, phương pháp của ông là: “Hoa Kỳ nhưng truyền thống” nghĩa là chặt chẽ trong kỷ luật, cơ cấu tổ chức cũng như hành trì.


Thiền sư Yasutani đến Hoa Kỳ năm 1962. Ðệ tử nổi tiếng của Ngài là Phillip Kapleau, kế nghiệp quản nhiệm thiền đường ở Rochester, New York. Kapleau viết cuốn The Three Pillars of Zen (Ba Trụ Thiền) năm 1965 nhấn mạnh về thiền quán và phương pháp ngồi thiền. Ông đã cố gắng Mỹ hóa cách hành trì từ nghi lễ, pháp danh, phục sức..


Ðệ tử Mỹ của thiền sư Shinryu Suzuki là Richard Baker cố gắng đưa thiền vào đời sống Hoa Kỳ, vừa phát triển đời sống khoa học kỹ thuật, vừa phát triển đời sống tâm linh. Baker làm giám đốc Trung Tâm Thiền ở San Francisco (San Francisco Zen Center).


2.3.2. Soka Gakkai:


Phát xuất từ Nhật Liên Tông, do Tsunesaburo Makiguchi và Josei Toda thành lập tại Nhật năm 1937, là một tổ chức cư sĩ lấy Kinh Pháp Hoa làm căn bản. Ðặt trọng tâm vào đức tin nơi Pháp Bảo: Kinh Pháp Hoa. Sự hành trì đơn giản giống Tịnh Ðộ Tông, nhưng thay vì niệm Phật chỉ niệm danh hiệu Namu Myoho Renge Kyo (Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh). Mục tiêu của Soka Gakkai là thực hiện một xã hội phúc lợi, tốt đẹp, hoàn mỹ cho từng cá nhân và cộng đồng. Lúc đầu hội viên của giáo phái này là những người Mỹ gốc Nhật, nhưng hiện nay Soka Gakkai có khoảng 150 ngàn tín đồ hầu hết là người Mỹ. Hội có 70 cơ sở tại Hoa Kỳ.


Sự thành công của Soka Gakkai đặt ở sự thành tâm của tín đồ trong việc thực hiện lý tưởng Phật Hóa toàn nước Nhật và mỗi thành viên đều có nhiệm vụ hoằng pháp. Do đó chỉ trong vòng 70 năm Soka Gakkai đã chinh phục được gần 20 triệu tín đồ tại Nhật.


Hết phần một