Trang chủ Tu học Phổ thơ 12 đại nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm

Phổ thơ 12 đại nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm

1567

1.    Nam mô hiệu Viên Thông, danh Tự Tại, Quán Âm Như Lai, quảng phát hoằng thệ nguyện. (lạy)

Nghĩa: Kính lạy Đức Viên Thông, Tự Tại, Quán Âm Như Lai, Ngài đã phát ra, mười hai nguyện lớn, cứu độ chúng sanh.

Thơ:
Tu thành Bồ Tát Quán Âm
Viên Thông, Tự Tại, Diệu Âm cứu đời
Mười hai nguyện lớn sáng ngời
Từ bi, Trí Tuệ, độ người an vui.

2.    Nam mô vô quái ngại, Quán Âm Như Lai, thường cư Nam (Đông) Hải nguyện. (lạy)

Nghĩa: Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai, thường ở biển Nam (Đông) Hải, Tự Tại Vô Ngại, cứu độ chúng sanh.
 
Thơ:
Không ngại sống gió dập vùi
Quán Âm Tự Tại, đẩy lùi bảo dong
Bao thuyền gặp nạn biển Đông
Quán Âm cứu khổ, thong dong thoát nàn.

3.    Nam mô trú Ta Bà U Minh giới, Quán Âm Như Lai, tầm thanh cứu khổ nguyện. (lạy)

Nghĩa: Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai, thường ở cỏi Ta Bà –  U Minh,  tìm tiếng kêu cứu của chúng sanh, mà liền đến cứu giúp.

Thơ:   
Ta Bà bao chốn nguy nan
Quán Âm nghe tiếng, bình an trở về
U Minh lắm chuyện nảo nề
Quán Âm niệm niệm, bốn bề bình yên.

4.    Nam mô hằng tà ma, trừ  yêu quái, Quán Âm Như Lai, năng trừ nguy hiểm nguyện. (lạy)

Nghĩa: Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai, Ngài thường hàng phục, tà ma quỷ quái, đem lại bình yên, hạnh phúc cho mọi người.

Thơ:
Gặp lúc  ma quái, chẳng yên
Niệm danh Bồ Tát, chúng liền tránh xa
Tà ma, quỷ quái quậy phá
Quán Âm Bồ Tát, độ tha quy hàng.

5.    Nam mô thanh tịnh bình thùy dương liễu, Quán Âm Như Lai, cam lộ sái tâm nguyện. (lạy)

Nghĩa: Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai, tay cầm dương liễu, tay cầm tịnh bình, rưới khắp thế gian, chúng sanh mát mẽ, tâm liền hỷ hoan.

Thơ:
Tình thương Mẹ trải muôn ngàn
Tay cầm tịnh thủy, muôn vàn từ bi
Tay cầm nhành liễu dương chi
Cam hồ rưới khắp, Tâm si rạng ngời.

6.    Nam mô Đại Từ bi, năng hỉ xã, Quán Âm Như Lai, thường hành bình đẵng nguyện. (lạy)

Nghĩa: Kính lạy  Đức Quán Âm Như Lai, Đại Từ Đại Bi, Đại Hỉ Đại Xã, bình đẵng cứu giúp chúng sanh.

Thơ:
Bình đẵng cứu giúp bao người
Từ bi thương xót muôn nơi nương nhờ
Hỉ xã trải rộng vô bờ
Quán Âm hiện khắp mê mờ xoá tan.

7.    Nam mô trú dạ tuần vô tổn hại, Quán Âm Như Lai, thệ diệt tam đồ nguyện. (lạy)

Nghĩa: Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai, đêm ngày đi khắp, cứu giúp chúng sanh khỏi bị sự tổn hại và thoát cảnh tam đồ: địa ngục ngã quỷ súc sanh.

Thơ:
Tam Đồ cảnh khổ muôn vàn
Niệm danh Bồ Tát xóa tan ngục trần
Cọp beo, thú giữ vây quanh
Quán Âm thị hiện, liền nhanh thoát nàn.

8.    Nam mô vọng nam nham cầu lễ bái, Quán Âm Như Lai, giả tỏa giải thoát nguyện. (lạy)

Nghĩa: Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai, khi người nào gặp lúc bị gong cùm xiềng xích mà hướng về hướng Nam lễ bái Quán Âm Như Lại thì lập tức thoát được nạn gong cùm.

Thơ:
Gặp lúc xiềng xích khổ nàn
Hướng nam vọng bái, bình an đến liền
Bị tù, đánh đập liên miên
Quán Âm nhớ niệm, bình yên tức thời.

9.    Nam mô tạo pháp thuyền du khổ hải, Quán Âm Như Lai, độ tận chúng sanh nguyện. (lạy)

Nghĩa: Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai, chèo thuyền Bát Nhã, trong biển khổ muôn trùng, để cứu vớt hết thảy chúng sanh.

Thơ:
Chúng sanh khổ hải ngập trời
Quán Âm thương cứu mãnh đời khổ đau
Nương thuyền Bát Nhã trước sau
Theo chân Bồ Tát, cùng nhau an lành.

10.     Nam mô tiền tràng phan hậu bảo cái, Quán Âm Như Lai, tiếp dẫn Tây Phương nguyện. (lạy)

Nghĩa: Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai, trước dùng tràng phàn, sau dùng báo cái, tiếp dẫn những ai phát nguyện tu theo ngài, đều được vãng sanh về cỏi Tây Phương tịnh độ.

Thơ:
Quán Âm tiếp dẫn vãng sanh
Tràng hoa, kỷ nhạc xung quanh hương ngàn
Có đủ bảo cái, tràng phan
Quán Âm hướng dẫn chỉ đàng về Tây.

11.    Nam mô vô lượng thọ Phật cảnh giới, Quán Âm Như Lai, Di Đà Thọ ký nguyện. (lạy)

Nghĩa: Kính lạy Quán Âm Như Lai, Ngài được Phật Di Đà Thọ ký thành Phật ở cởi Tây phương tiếp sau Phật A Di Đà.

Thơ:
Phương tây phước báo tròn đầy
Vô biên thọ mạng chốn này không sai
Di Đà thọ ký Như Lai
Quán Âm thành Phật tương lai cỏi nầy.

12.    Nam mô đoan nghiêm thân vô tỉ trại, Quán Âm Như Lai, quả tu thập nhị nguyện. (lạy)

Dịch: Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai, khi mãn mười hai đại nguyện, thân Ngài đoan trang không ai sánh bằng, là kết tinh của sự thực hành tròn đầy mười hai nguyện rộng lớn nầy.

Thơ:
Mười hai nguyện lớn tròn đầy
Đoan nghiêm thân Phật đó đây không bằng
Từ Bi sáng tợ vầng Trăng
Bao la Trí Tuệ ngập tràn ánh Dương.