Trang chủ Thời đại Xã hội Quan điểm tiến bộ của cư sĩ Thiều Chửu về Phật giáo

Quan điểm tiến bộ của cư sĩ Thiều Chửu về Phật giáo

Tại nơi tản cư kháng chiến chống Pháp, Thiều Chửu đã viết một số tác phẩm về Phật giáo mang tư tưởng tiến bộ như “Từ nay học tăng đi về lối nào”, “Phật học vấn đáp”, “Con đường học Phật ở thế kỷ thứ 20” và dịch xong kinh “Diệu Pháp Liên Hoa”, kinh “Viên Giác chú giải”…


Trong tác phẩm “Phật học vấn đáp” viết năm 1949, giảng tại lớp Phật học Trần Nhân Tông ở Cao Phong Phật học tràng, Thiều Chửu cho rằng Phật tức là người đã dùng công phu khoa học mà tu chứng tới tới cùng tột của cái bản năng con người nghĩa là thành một nhân cách cao đẳng, lý trí đúng đáng, sáng suốt vô cùng, chứ không phải là một đấng tối cao có quyền ban phúc làm tội các sinh linh, hoặc là một đấng thần thông biến hoá thường thấy ở các tôn giáo khác.


Mục đích của đạo Phật, theo ông là có tính cách mạng “vì nó nhằm diệt trừ giai cấp chuyên chế để đưa toàn dân đến chỗ phúc trí bình đẳng, cùng xum họp vui hoà; hơn nữa còn giáo hoá cho mọi người trừ sạch tính xấu, vượt hẳn tư cách bình thường, tiến tới một tư cách cao thượng tuyệt trần”.


Thiều Chửu cố chứng minh một sự thật lịch sử: Phật giáo truyền sang các nước phương Đông như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam… đã làm cho các nước này trở nên cường thịnh. Ông giải thích “đó là do dân các nước ấy sẵn có văn minh Khổng Giáo, có tư tưởng cao cả, cho nên khi gặp Phật pháp Đại thừa liền như lửa gặp gió, phát triển rực rỡ phi thường”.


Thiều Chửu nhấn mạnh: “Phật giáo có công rất lớn cho nước ta, vì hai việc trọng đại nhất là ngoại giao và văn hoá đều nhờ giới Phật giáo cả: trong thời Đinh, Lý, Trần… việc đối đáp với Trung Quốc đều là nhờ tăng già hết”.


Thiều Chửu nêu rõ: đạo Phật không tách rời thế gian. Hết thảy Pháp của Như Lai tức là Pháp của thế gian; Phật Pháp có phải là cái Pháp nói ở ngoài thế gian đâu. Ông cho rằng Phật giáo “cũng là tôn giáo, cũng chẳng phải là tôn giáo. Vì tôi đã nói: Phật pháp là phương tiện diệu dụng viên dong vô ngại kia mà! Lúc nào trình độ nhân loại còn phải dùng đến lề lối tôn giáo, thì Bồ tát thi hành phép tôn giáo hoá. Khi nào trình độ nhân loại tiến đến chỗ duy ngã độc tôn, thì Bồ Tát lại thi hành phép xã hội hoá, nhân gian Phật hoá… Đạo Phật có phải là đạo chết chẹt một chỗ, không linh động đâu!… Chỉ dân nào trình độ đã đến bậc cao thì mới áp dụng Phật giáo được nhất thời thôi”.


Thiều Chửu cho rằng đạo Phật vừa duy tâm lại vừa duy vật. Trong kinh Phật, “có kinh nói về duy vật như Di Đà, Dược Sư, Bảo Tích…; có kinh nói về duy tâm như Lăng Nghiêm, Bát Nhã, Kim Cương…; có kinh nói về duy thức, như Hoa Nghiêm, Lăng Già…”


Thiều Chửu nhận định: nhà Phật sinh hoạt theo chế độ triệt để dân chủ công hoà; còn sự sinh sống hàng ngày thì theo quy tắc xã hội hoá, tập sản dùng chung, tập đoàn sống chung, cũng như Đời Sống Mới ngày nay, không cho ai lập nghiệp riêng, mà cùng phải sống chung, ăn chung, làm chung.


Ông cho rằng học thuật của Phật giáo “có giá trị như khoa học, nhận định của Phật rất đúng với khoa học ngày nay, mà còn biết trước từ hơn 2000 năm nữa kia. Nhà Phật cho rằng: sáng tạo ra thế giới, vạn sự vạn vật, chỉ là bởi một cái năng lực của sự phân biệt của cái thức, trong kinh gọi là Duy Thức”…


Phật nói: có đến 3.000 đại thiên thế giới, chứ không phải chỉ có Trái Đất ta ở. Theo Thiều Chửu, quan điểm này phù hợp với khoa học hiện đại cho rằng trong vũ trụ có vô số thiên hà. Về Thuyết Địa Ngục và Tịnh Độ của Phật, ông nhận xét: vì Phật nói có nhiều thế giới, “nên hạng tiến hoá hơn thì ở cái thế giới Tịnh Độ, hạng quá dã man thì ở thế giới Địa Ngục là cũng có thể có, trước đây trên 1000 năm, nhân loại sống dưới chính thể chuyên chế độc ác, tàn phá hết quyền tự do, thì có khác gì Địa Ngục?”


Thiều Chửu nhấn mạnh: Phật pháp tuyệt đối không cho mê tín, xác định rõ rằng người ta thì ai cũng có thể thành Phật, tức kẻ giác ngộ. “Phật Pháp có giá trị khoa học, cũng chia làm 5 khoa: Nội Minh (nay gọi là tâm lý học); Nhân Minh (luân lý học); Công Xảo Minh (cơ khí học); Y Phương Minh (y dược học); Thanh Minh (thế giới ngữ ngày nay). Nhưng vì bộ óc người phương Đông chỉ trọng lý thuyết, coi nhẹ thực nghiệp, nên ngày nay chỉ còn lại hai khoa Nội Minh và Nhân Minh, thật đáng tiếc thay!”


Chắc chắn phải tự tin tính đúng đắn vào suy tư riêng đến thế nào Thiều Chửu mới có thể định ra con đường tu học cho cả một thế kỷ, đặt nó thành tiêu đề và mong muốn “Con đường học Phật ở thế kỷ thứ 20” được tiếp nhận dù phải nói rõ sự thực và day dứt để nói.


Trong phần I với tiêu đề “Những điểm chân thật”, Thiều Chửu đã thẳng thắn vạch ra các nhận thức và việc làm sai trái của Tăng già Việt Nam đương thời. Theo ông, có 6 nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn của Phật giáo nước ta ở thế kỷ 20 là: “Chỉ độ bừa bãi mà không dạy dỗ; Coi rẻ giới pháp mà nuôi ong tay áo nhiều; Trọng hình thức, thiếu tinh thần; Chỉ học nhồi sọ mà không biết biến thông; Giữ rịt lối cổ mà không hiểu đại thế; Chỉ niệm Di Đà mà đợi cái chết”


Trong phần II cuốn sách với tiêu đề “Con đường học Phật”, Thiều Chửu đã vạch ra lý luận để chấn hưng đạo Phật. Đó là con đường kết hợp tu tập Đại thừa và Tiểu thừa thực hiện 6 phép hoà thuận (Lục Hoà) của Phật dạy và thực hiện Ngũ Minh.


Ông “đề xuất sự sinh hoạt mới đối với tăng già và tăng lữ”. Luận điểm này thể hiện quan điểm biến thời, biến thế của Thiều Chửu. Sinh hoạt mới không gì tốt hơn là thực hành 3 nghề: công nghệ, y dược và giáo dục. Nói rộng ra, sinh hoạt mới là lối sống Phật giáo mới, phát triển Phật giáo thành một thực thể xã hội ngoài thự thể tôn giáo. Thực thể xã hội và tôn giáo thống nhất được thì Phật giáo trường tồn, tiến đến viễn cảnh vẻ vang.


Có thể nói trong thời kỳ 1947-1954, tư tưởng yêu nước, chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa tam dân, tư tưởng dân chủ… vẫn còn đóng những vai trò năng động trong xã hội. Song dù thế nào, không thể phủ nhận chủ nghĩa yêu nước ở mỗi người Việt Nam vẫn là hạt nhân căn bản để tiếp thu các thứ chủ nghĩa khác. Một tình hình như vậy có thể dẫn các thành phần trí thức khác nhau hướng tới những học thuyết xã hội khác nhau.


Chính vì vậy, mặc dầu được soạn thảo tại vùng tự do, nhưng tác phẩm “Con đường học Phật ở thế kỷ thứ 20” lại được in ở Hà Nội trong vùng tạm chiếm. Điều này nói lên tầm mức lôi cuốn của cuộc kháng chiến chống Pháp, lòng yêu nước ở người con Việt không thiếu, nhưng cũng nói lên chủ trương giành độc lập, kiến thiết một xã hội và mong ước xã hội ấy tốt đẹp không chỉ là đặc quyền tư tưởng của một lớp người duy nhất.


Bản thân Thiều Chửu, tuy đứng trên lập trường Phật giáo, song là một người yêu nước, ông hoàn toàn ủng hộ Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu tiến hành cuộc kháng Pháp, coi Chính phủ đó là người đại diện cho dân tộc, lãnh đạo dân tộc.


Bằng chứng hiển nhiên là ông từ bỏ vùng bị Pháp chiếm, chối từ những giúp đỡ tiền bạc của người ở vùng tạm chiếm, tham gia vào các công tác của địa phương nơi mình cư trú trong tản cư…


Nhưng là một người Phật tử, ông lại hình dung xã hội nhân quần theo viễn kiến Phật giáo mà ông có niềm tin chắc chắn chỉ có thể dùng tư tưởng Phật giáo để xây dựng một xã hội tốt đẹp đến hoàn thiện hoàn mỹ. Có thể gọi lý luận của ông là chủ nghĩa Phật giáo- xã hội.


Chủ nghĩa Phật giáo của Thiều Chửu đã thể hiện sức sống muôn thuở của nhưng suy tư chân chính của nhân loại. Những gì ông nêu ra đều xuất phát từ tấm lòng thành đối với Phật giáo và dân tộc. Nguyện ước chấn chỉnh Phật giáo ở ông cho thấy Phật giáo cần và mãi mãi phải là “máu thịt” tâm hồn của dân tộc, dân tộc đòi hỏi và đã coi Phật giáo như một chỗ tựa chắc chắn cho dặm dài lịch sử. Muốn vậy, không có con đường nào khác là dấn thân không ngừng trên con đường tu học và xây dựng Phật giáo nhân gian”.