Trang chủ Tin tức TP.HCM: GĐPT Đức Chơn tưởng niệm huý kỵ cư sĩ Tâm Minh...

TP.HCM: GĐPT Đức Chơn tưởng niệm huý kỵ cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám (1897-1969)

PTVN - Chiều nay 17/4 (nhằm 6/3 Tân Sửu), tại Tu viện Quảng Hương Già Lam (số 498/11 đường Lê Quang Định, P.1, Q.Gò Vấp), GĐPT Đức Chơn đã trang nghiêm tổ chức lễ tưởng niệm huý kỵ lần thứ 52 cố cư sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám - sáng lập viên Gia đình Phật tử Việt Nam cùng hiệp kỵ chư vị Ân sư, Bảo trợ, Gia trưởng, Huynh trưởng, Đoàn sinh GĐPT Việt Nam quá cố.

765

Lễ tưởng niệm có sự chứng minh của chư tôn đức Tăng tại Quảng Hương Già Lam, cùng với sự tham dự của anh chị em huynh trưởng, đoàn sinh GĐPT Đức Chơn.

Buổi lễ diễn ra theo nghi thức truyền thống của thiền môn xứ Huế.

Cư sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám sinh năm Đinh Dậu (1897) tại làng Đồng Mỹ (Phú Mỹ), tổng Phú Khương, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông xuất thân trong một gia đình quyền quý nhiều đời làm quan; từ nhỏ, đã tỏ ra là người có năng khiếu văn chương thi phú. Thân sinh là Binh bộ Thượng thư Lê Đỉnh ở triều Tự Đức.

Cùng với anh là Y sĩ Lê Đình Dương trực tiếp học chữ Nho với thân phụ. Cả hai anh em đều tỏ ra thông minh xuất chúng ngay từ thuở niên thiếu. Riêng ông từ nhỏ, đã tỏ ra là người có năng khiếu văn chương thi phú.

Trong những năm theo học, ông luôn giành thứ vị thủ khoa trong các kỳ thi tốt nghiệp cuối cấp. Ông tốt nghiệp Y sĩ Đông Dương (đỗ thủ khoa) tại Hà Nội năm 1916, Y khoa Bác sĩ năm 1930, ngạch Pháp quốc, tại Y khoa Đại học đường Hà Nội.

Năm 1928, ông lại được thuyên chuyển về Huế, với duyên này, được tham kiến và nghe giảng giải Phật pháp từ Đại lão Hòa thượng Thích Giác Tiên nên phát nguyện quy y Tam bảo, pháp danh là Tâm Minh, pháp tự là Chiêu Hải; ăn trường trai từ đó và nghiên cứu học hỏi kinh điển Phật giáo.

Năm 1932, Hội An Nam Phật học ra đời, ông làm Hội trưởng và chư tôn Hòa thượng trong Ban Chứng minh là cố vấn cho Hội để thực hiện sứ mệnh: Truyền bá Chánh pháp, mở trường đào tạo chư Tăng, xuất bản báo chí, xây dựng các tòng lâm.

Từ năm 1934-1945 là những năm hoàn chỉnh các tổ chức của Phật giáo và hệ thống đào tạo Tăng tài, các lớp Phật học cho thanh niên. Kết quả mà ông đã đóng góp được trong những năm tháng ấy, vẫn mãi mãi được ghi nhớ: Một thế hệ Tăng sĩ tài ba đã nở rộ, làm nền tảng tuyên truyền phát huy chánh pháp, đoàn kết Tăng Ni và Phật tửbảo vệ Phật giáo trước những khó khăn lúc bấy giờ. Chùa Từ Quang, nơi làm giảng đường bước đầu để tuyên dương chánh pháp cũng đã thấy bóng dáng của ông trong chiếc áo dài màu đen và chiếc khăn đóng tươm tất, thành kính đảnh lễ chư Tăng trước khi bước lên Pháp tòa để giảng kinh.

Năm 1946, cuộc chiến tranh chống Pháp bùng nổ, dân chúng Huế tản cư, ông cùng gia đình di tản về Quảng Nam. Từ năm 1947 đến 1949 ông làm chủ Tịch Ủy ban Hành chánh Kháng chiến miền Nam Trung bộ. Tại Liên khu V của vùng kháng chiến, ông tập họp một số đoàn viên của đoàn Phật học Đức dục có mặt trong vùng và thành lập tổ chức “Phật giáo và Dân chủ mới” tại Bồng Sơn – Bình Định, nghiên cứu việc tổng hợp giáo lý Phật giáo và triết học Mác – Lê-nin.

Mùa hè năm 1949, ông tập kết ra Bắc. Sau đó được đề cử làm Chủ tịch phong trào vận động Hòa Bình thế giới. Năm 1956, ông và Hòa thượng Trí Độ tham dự phái đoàn sang dự đại hội Phật giáo Buddha Jayanti tại Ấn Độ.

Năm 1961, toàn bộ kinh Lăng Nghiêm mà ông đã dày công phiên dịch và chú giải trong nhiều năm, đã được đăng tải trên báo Viên Âm trước đây được ông hoàn tất và xuất bản tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Sau đó, sách được gia đình ông tái bản lưu hành rộng rãi ở miền Nam.

Trong những năm ở Bắc, ngoài ngày giờ làm việc cho Nhà nước, ông đến chùa Quán Sứ để dịch kinh và giảng kinh, hướng dẫn việc tu học giúp nhà chùa. Kết quả của những năm tháng dày công quả vì đạo pháp và dân tộc ấy còn được thể hiện qua các kinh sách uyên thâm như: (1) Kinh Thủ Lăng Nghiêm, (2) Luận Nhơn Minh, (3) Đại Thừa Khởi Tín Luận, (4) Bát Thúc Qui Củ tụng, (5) Phật học thường thức, (6) Bát Nhã Tâm Kinh, (7) Lịch sử Phật giáo Việt Nam và Phật Tổ Thích Ca, (8) Tâm Minh – Lê Đình Thám tuyển tập (gồm 5 tập).

Thuận lý vô thường, ông ra đi ngày 23/4/1969 (nhằm 7/3 âl, năm Kỷ Dậu), sau khi đã đàm đạo lần cuối cùng với Hòa thượng Đôn Hậu, tại bệnh viện Việt – Xô, Hà Nội. Thọ 73 tuổi và 42 năm phụng sự Tam Bảo.

Tinh thành trong giai đoạn chấn hưng Phật giáo giữa thế kỷ XX, Cư sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám quả là bậc tiền bối hữu công thật sáng chói, ông đã vượt qua ranh giới hình thức để tựu thành đạo nghiệp cao quí cho hàng hậu tấn ngưỡng vọng dù xuất gia hay tại gia.


Vạn Hưng