Trang chủ Đời sống Nghệ thuật sống Trên Đường Du Hóa (Phần đầu)

Trên Đường Du Hóa (Phần đầu)

61

 

– Sao mà con trăn trở hoài vậy?
 
Bất Ác thở dài thườn thượt: 
 
– Bạch thầy! Độ ai chứ độ gia đình thật là quá khó! Đối với mọi người thì con vẫn là đứa bé ngỗ nghịch, ham chơi. Con thật không thể lớn trong mắt họ, nhất là mẹ con, thứ đến là anh chị trong nhà, con mãi là "thằng út hỉ mũi chưa sạch, mỏ ác chưa hết cứt trâu". 
 
Nhà Sư cười khẽ:  – Thì con cũng đã lớn với ai đâu? Con vẫn là chú điệu bé tí hon trong mắt Thầy đó mà! 
 
Giây lâu, Nhà sư ngồi dậy nói tiếp: 
 
– Như vậy là con phải lớn mãi, lớn hoài! Lớn với giới đức, trí đức, minh đức của mình. Lớn với vô tham, vô sânvô si của mình! Chuyện cứu độ gia đình, con hãy ít nói năng, chỉ nên thể hiện nơi hành động, nơi đời sống. Con phải sống tri túc, dễ nuôi, hòa nhã, vui vẻ và giản dị. Phải biết kính trọng, lễ độ, thương yêu và thông cảm với mọi người. Sống hòa với mọi người nhưng đừng đánh mất mình bởi mọi người. Do vậy, khi mềm, khi cứng phải rất linh hoạt. Lắm lúc cũng cần một vài thái độ cương quyết, dứt khoát về một số việc nào đó, như việc ác, hủ tục mê tín dị đoan… của người khác! Con làm được vậy, sống được vậy thì ai dám chê con là nhỏ bé nữa? 
 
Bất Ác nhũn nhặn đáp: 
 
– Con sẽ nghe lời Thầy dạy. Hành động tạo sức mạnh cho lời nói. Lời nói có được sức mạnh là do đời sống có giới, có trí. Con hiểu rồi, con sẽ cố gắng. 
 
– Ừ! Tất cả hành động phải biết dựa theo trí tuệ và từ bi. Bao giờ cũng với tâm thái bén nhạy, trong sáng và định tĩnh để nhìn ngắm vấn đề và giải quyết vấn đề. 
 
Bất Ác chợt ngồi dậy:  – Bây giờ con hiểu là con phải làm gì với mấy con cá rồi… 
 
Nhà Sư cười khẽ:  – Đúng vậy! Thấy việc gì hợp với từ bi vô ngã, trí tuệ vô ngã là làm ngay, không do dự, không phân vân, lưỡng lự. 
 
Bờ sông rất xa nhà, Bất Ác âm thầm làm việc trong đêm. Khi nghe được tiếng cá quẫy đuôi giữa dòng sông rộng, chú mới nở được nụ cười hồn nhiên và sung sướng. 
 
Nhà Sư chờ Bất Ác ở đầu ngõ, thấy chú với những bước dài xăng xái thì đã hiểu chuyện gì, bèn nói: 
 
– Từ lâu, con mới chỉ không làm điều ác – bất ác – bây giờ con đã biết làm thêm việc thiện. Con đã biết bổ túc cái thiếu sót cho công hạnh của mình. 
 
Đêm mùa hè, trời rất mau sáng. Nhà Sư vừa mới ngồi thiền một lát thì gà đồng quê đã đua nhau gáy vang rân. Tiếng người giục trâu ra đồng, tiếng gọi nhau ơi ới, tiếng chó sủa, tiếng heo kêu… từ chỗ này, nơi kia vọng lại tạo nên một âm thanh yên ả, thanh bình. 
 
Nhà Sư vừa mở mắt, thò chân xuống giường tìm đôi dép thì Bất Ác đã mang chậu nước và khăn sạch đứng một bên. 
 
– Vì con mà Thầy phải một đêm thức trắng. 
 
– Không có gì đâu con, sức khỏe Thầy còn tốt. Vả lại, đôi khi nghĩ đến sức khỏe của mình thái quá dễ sinh những thói hư tật xấu; sinh ra mê đắm cái thân… 
 
– Dạ, con hiểu! 
 
Lát sau, Nhà Sư mặc y, ôm bát… chào mọi người trong gia đình xin từ giã. Người mẹ nói với Bất Ác: 
 
– Út, má đã chuẩn bị món ăn sáng. Con hãy dâng Thầy điểm tâm rồi hẳn lên đường. 
 
Bất Ác nói với giọng ẩn ức trong lòng :  – Thưa má, Thầy con dùng no rồi. 
 
Người mẹ ngạc nhiên :  – Dùng rồi? Dùng bao giờ? 
 
Bất Ác có vẻ hờn mát : 
 
– Thưa Má, Thầy con đã ăn no cái đau khổ của chúng sanh, đã ăn no cái tâm địa si mê độc ác của con người. Suốt đêm, Thầy con đã ăn no những thứ đó ! 
 
Người mẹ hạ thấp giọng, hai mắt mở lớn :  – Út! Con nói cái gì kỳ lạ vậy, má không hiểu. 
 
Bất Ác chợt nghẹn ngào, sa nước mắt : 
 
– Má không cần hiểu đấy chứ! Vì một miếng ăn ngon, vì một chút khoái lạc của khẩu dục mà đang tâm đày đọa kẻ khác, giam giữ kẻ khác, moi ruột, chặt đầu, uống máu kẻ khác. Má bảo má không thấy sao? 
 
Người mẹ đã hiểu :
 
– À… thì ra là vậy. Con Bảy đó con à! Con Bảy nó mua nó nhốt đó. Con Bảy nói hôm qua ngày rằm nó không sát sanh. Nó ăn chay tháng bốn kỳ. Còn má thì má hiểu chứ. Từ lâu má có sát sanh hại vật, ăn gian, nói dối ai đâu! Má không biết tụng kinh, niệm Phật, không biết ăn chay, nhưng má ăn hiền ở lành lắm con à! Cả làng, cả xóm má chẳng dám làm mất lòng ai, kể cả một đứa con nít! 
 
Cảm động, Bất Ác chạy lại ôm mẹ, khóc nức nở:  – Tội con đáng chết! Xin mẹ hãy hỉ xả tha thứ cho đứa con ngu dại, bất hiếu! 
 
Người mẹ già đỏ lệ lưng tròng, đưa tay vuốt ve đứa con út mà bà không ngờ nó lớn khôn đến vậy. 
 
Lát sau, Bất Ác quay lưng đi, bịn rịn: 
 
– Má à! Mỗi lần anh chị Bảy móc gan mổ ruột một con cá, má cứ nói với anh chị là coi như đang móc gan, mổ ruột thằng Út đó. Mỗi lần anh chị Bảy thọc huyết, chặt đầu con vịt, con gà thì coi như đang thọc huyết, chặt đầu thằng Út đó. Má hãy nói như vậy nghe má! 
 
*** 
 
Hai thầy trò đứng đợi xe "lam" bên đường. Một người ăn xin tàn tật đi qua: áo quần tả tơi, hôi hám, mình mẩy ghẻ lở, da bọc xương; mũi và miệng chỉ còn một, trông như con quái vật. Bất Ác rụt rè nói với Nhà Sư: 
 
– Bạch Thầy, con thấy ghê ghê nhưng mà tội nghiệp quá. Muốn giúp người ta một cái gì, nhưng…, nhưng… 
 
Nhà Sư hiểu: 
 
– Con muốn cho mà sợ không còn tiền đi xe phải không? Còn nghĩ về cái tiện nghi, cái an toàn cho mình thì dễ sinh ra vị kỷ, ích kỷ. Nếu con muốn cho thì cứ đem cho rất là thanh thản. Hết tiền xe thì chúng ta xin "quá giang" chứ có vấn đề gì đâu! 
 
Lời khích lệ của Nhà Sư như một tác động mãnh liệt; chẳng còn lưỡng lự nữa, chú lấy số tiền ít ỏi trao tặng hết cho người ăn xin khốn khổ. 
 
Nhà Sư cười nhẹ: 
 
– Thấy không! Tâm con bây giờ nhẹ như một mảnh lông hồng. Ấy chính là hỷ tâm, là lạc tâm, là phước báu hiện tiền, nó trả quả ngay, không đợi ở đâu xa. Cái phước này tương đương với cõi trời Dục giới, hiện tại thì có công năng làm mát mẻ và lắng dịu tâm hồn. 
 
Bất Ác thấy mình lâng lâng, thật hạnh phúc. Nắng bắt đầu lên. Những chuyến xe qua tung bụi mù mịt. Chẳng ai cho hai người quá giang. Bất Ác lại trở nên nóng nảy: – Giờ phải làm sao hở Thầy? 
 
– Thầy có muốn làm sao đâu! 
 
– Người ta không cho đi? 
 
– Thì mình hãy đợi! 
 
Mồ hôi đã rịn trên vầng trán hai người. Ở đó không một bóng cây. Bất Ác len lén đưa mắt nhìn: sắc mặt Nhà Sư vẫn bình thản, an nhiên như có một nụ cười lặng lẽ ở trong tâm! 
 
– Bạch Thầy – Bất Ác đã cảm thấy khô cổ – đợi hoài như thế này thì biết đến bao giờ? 
 
Nhà Sư chậm rãi quay lại, ân cần nói: 
 
– Bây giờ con hãy đứng thẳng, nhắm mắt lại, thư thái, buông xả. Xong rồi, con hãy bỏ tất cả chuyện hiện tại, quá khứ, tương lai. Bỏ quá khứ là bỏ tất cả các hoài niệm, bỏ những gì xảy ra dù chỉ cách đây một, hai phút. Bỏ hiện tại là bỏ quên chuyện nắng nôi, bụi cát, đón xe và đợi xe. Bỏ tương lai là bỏ mọi dự định đến đâu và sẽ đi đâu. Trong tâm thái như vậy, con hãy lắng nghe, nghe được gì hãy nói cho Thầy biết. 
 
Bất Ác làm theo, một lúc sau, chú mở mắt ra:  – Con không thấy gì cả. Không nghe gì cả! 
 
Nhà Sư thản nhiên:   – Phải! Nếu nhiếp tâm đúng thì sẽ không thấy gì cả, không nghe gì cả. 
 
Bất Ác ngạc nhiên:    – Con vẫn không hiểu. 
 
– Có gì đâu mà không hiểu! Khi với tâm thái như vậy con có nóng nảy và bất an không? 
 
 – Dạ không! 
 
– Con có lưỡng lự, băn khoăn và lo lắng gì chăng? 
 
– Dạ không! 
 
– Vậy thì Thầy đã làm như vậy. Thầy đợi chờ mà như là không đợi chờ gì cả. Nói cách khác, nhờ Thầy trú tâm rỗng không nên thầy được an nhiên và tự tại. Con đợi chờ mà có cái đợi chờ trước mặt, thế là con bị tương lai tưởng vọng! Con đợi chờ mà bị chi phối bởi nóng nôi và bụi cát, thế là con bị hiện tại cuốn trôi! Do đó, con sinh ra nóng nảy, bất an và phiền não! Thật là giản dị, thật là dễ hiểu! 
 
Bất Ác la lên:   – Ồ! Con đã hiểu! 
 
Nhà Sư cười nhẹ:    – Vấn đề là "thấy" và "biết" chứ không phải là "hiểu". Nếu hiểu thì con sẽ bất an trở lại. 
 
Đúng như Nhà Sư nói, một lúc không lâu lắm, Bất Ác lại nói: 
 
– Không biết trưa nay mình sẽ dùng cơm ở đâu? Đợi cái kiểu này thì có lẽ đến chiều tối cũng chưa chắc có xe! 
 
Nhà Sư mỉm cười: 
 
– Đấy, thấy không? Con có thật thấy, thật biết đâu! Con vẫn bồn chồn vì một cái gì đó ở trước mặt. Con vẫn mong muốn rằng sẽ như thế này hoặc như thế kia. Con còn sinh ra sợ hãi vì không biết ăn trưa ở đâu, nghỉ trưa ở đâu. Tất cả những ước vọng này đều phát sinh bởi Vô Minh và Ái Dục. Dường như có lần Thầy đã dạy các con rằng: nghệ thuật sống Đạo, sống Thiền là sống không chuẩn bị, không lưỡng lự, không chờ đợi cái gì hết, luôn luôn với tâm thái trong sáng, tự tại và an nhiên! Nghệ thuật ấy con đã không nắm được. 
 
– Con có hiểu được một phần, nhưng bạch Thầy, như trong trường hợp này, nếu mình cứ đứng mãi nơi đây thì làm sao đến? 
 
– Nếu con muốn đến, cũng có đến được đâu? Vậy sao con không coi chỗ này như là chỗ đến của con? Muốn đi thì cái đi ấy cũng là chỗ đến của mình. Hãy coi mục đích là cái bây giờ. Phương tiện và cứu cánh đều đầy đủ trong sát-na hiện tại này. Nguyên nhân chính là kết quả. Vậy lúc nào, bao giờ, tâm chúng ta cũng phải an trú nơi chỗ không có thời gian, không có không gian ấy. Bao giờ và lúc nào tâm ta cũng phải tỉnh giác chánh niệm trong cái hiện tại luôn luôn trôi chảy, mới mẻ, phong phú và sinh động này. Ôi, Chỉ có như vậy mà sao tâm con cứ đòi rắc rối! 
 
Im lặng một lúc cho người đệ tử thẩm thấu ý nghĩa sâu xa, mầu nhiệm nhưng giản dị trong lời nói vừa rồi, Nhà Sư chậm rãi tiếp: 
 
– Cuộc nhân sinh nầy thật là lắm hệ lụy và nhiều khổ đau, vì con người cứ mong chạy đuổi, rượt tìm mục đích trước mắt. Con người luôn luôn mơ tưởng cái phía trước, không bao giờ bằng lòng với cái bây giờ! Họ đã dùng mọi phương tiện, toan tính, mưu mô xảo quyệt, lọc lừa không từ nan cả những cách thế phi luân, vô đạo để đạt cho kỳ được mục đích hẳn thôi! Nhưng mục đích nào có đạt được? Vì sao? Vì tâm tham dục vốn là một hố thẳm không đáy, chẳng bao giờ lấp đầy, nên dẫu có hụt hơi kiếm tìm họ vẫn không thỏa mãn, không vừa lòng.
 
Họ tìm kiếm nữa, khát khao nữa… Họ chạy đuổi đến sức cùng lực kiệt và chung cuộc, chỗ họ gặp chính là nấm mồ! Có kẻ đến tuổi già tóc trắng vẫn chưa thỏa mãn được ước vọng, nhưng một sớm mai kia, Tử thần đến gõ cửa rồi mang họ ra đi, đến nơi chốn y như tội lỗi, như ác nghiệp mà họ đã bôn ba tạo tác ở trong đời…! 
 
Bất Ác lắng nghe những lời, những chữ như len thấm vào tận xương tủy:    – Con đã hiểu! 
 
– Con ạ! Chỉ có mong cầu một mục đích phía trước thôi mà thế gian này đã xảy ra muôn vạn nhân duyên chằng chịt của khổ đau như thế. Xã hội nào, tôn giáo nào, con người nào, chủ nghĩa nào, triết thuyết nào cũng đẻ ra một lý tưởng, một mục đích cao cả ở phía trước mặt rồi đổ dồn mọi hành động về cho lý tưởng và mục đích ấy. Và rồi chuyện gì xẩy ra? Đấy chính là chiến tranh, là xung đột, là đố kỵ, là ganh ghét… xẩy ra tràn lan trên thế giới. Vì sao vậy? Vì mục đích đồng nghĩa với dục vọng, đồng nghĩa với quyền lợi lẫn quyền lực. Vậy, khi mà các mục đích va chạm nhau thì đấy là bi kịch máu xương kinh khiếp nhất mà con người vừa là diễn viên, vừa là khán giả trên sân khấu cuộc đời. 
 
Bất Ác cúi đầu:  – Con không ngờ bài học hôm nay lại sâu rộng đến thế! 
 
– Do đó! Ngay từ bây giờ, con phải biết đợi chờ như không đợi chờ gì hết! Ở đâu cũng là mục đích cả, chứ đừng lầm lẫn nguy hại phương tiện và mục đích khác nhau. Có người lại bảo phương tiện hy sinh biện minh cho cứu cánh! Thật là khiếp! Thật là si mê! Thật là ác độc! Chúng ta là con nhà Phật, phương tiện và mục đích nó hòa tan trong cái bây giờ. Ở đây cũng vậy, lên xe cũng vậy, đến chỗ nào đó cũng vậy. Nhân, quả viên dung! Bờ này, bờ kia viên mãn! Như thế thì những cái gọi là hỗn loạn, giật giành, nóng nảy, bất an, thống khổ làm sao tồn tại? Ta luôn luôn sống trong giây khắc hồn nhiên, thiên thu, rỗng không và tự tại này. Con nên nhớ rằng, chỉ một khởi niệm vọng cầu là ta đã góp thêm năng lực xung đột, rối loan cho cuộc đời này rồi! Hãy nhớ lấy nghe con. 
 
– Bạch Thầy, con sẽ khắc sâu trong tâm khảm. 
 
Giọng Bất Ác run run chứng tỏ chú đang xúc động mãnh liệt. 
 
Nhà Sư gật đầu hài lòng. 
 
– Thầy cũng không hy vọng là con đã hoàn toàn thấy rõ. Nhưng mà con cứ nghe, tất cả rồi sẽ ẩn tiềm trong vô thức, một lúc nào đó tự con sẽ giác ngộ điều ấy.
 
***
 
 
Khoảng mười giờ trưa, Bất Ác nói:   – Bạch Thầy, con muốn đi bộ! 
 
– Ừ, như vậy đấy! Muốn đợi, thì cứ đợi như không đợi gì cả. Muốn đi thì cứ đi như không đi gì cả. Con ạ! Nghệ thuật sống Đạo là đừng bao giờ phân vân giữa hai vấn đề. Đừng lưỡng lự trong việc chọn lựa, bằng cách dứt khoát chọn ngay một cái! Đừng ở núi này mà trông núi kia! Đừng vừa bên này, đừng vừa bên kia. Nếu lơ lửng thì cứ là lơ lửng. Đừng bỏ chân một lúc cả hai bên mà không bước đi được. Không bước đi được là dừng lại. Dừng lại là bị đẩy lùi, là bị chìm, là khổ đau! 
 
Bất Ác nói:   – Xin Thầy cho ví dụ để dễ hiểu. 
 
– Thì đây, con muốn đợi: thì cứ đợi! Con muốn đi: thì cứ đi! Nếu vừa muốn đợi vừa muốn đi thì chắc chắn tâm con sẽ bất an. 
 
– Thầy cho một ví dụ nữa. 
 
– Ví như chuyện người ăn xin hồi nãy! Muốn cho thì cứ cho, không cho thì thôi. Nếu lưỡng lự giữa hai đàng sẽ phát sinh bứt rứt, khó chịu ở trong lòng. 
 
– Con xin một ví dụ nữa. 
 
– Bao nhiêu ví dụ cũng được cả. Như chuyện thả cá hồi sáng nhé. Muốn thả thì ra sông thả ngay. Muốn đợi sáng cho mọi người hay, thì hãy đợi sáng. Bởi con đã không nhất quyết, dứt khoát chọn lựa cái nào nên suốt đêm con đã trằn trọc thao thức đó, con không nhớ sao? 
 
– Bây giờ thì rõ ràng quá rồi, con không còn hoài nghi gì nữa. 
 
Hai thầy trò Nhà Sư vừa đi vừa trò chuyện trên đoạn đường dài nắng đổ lửa. Nhựa đường chảy loang loáng, lổ chổ. Không một ngọn gió giữa bầu trời nóng nắng như thiêu người. Cả hai, đầu trần, chân đất; một hình ảnh kỳ quái, lạ đời trong mắt của mọi người. 
 
Nhà Sư trực thức ngay điều đó, nói: 
 
– Này Bất Ác con! muốn dập tắt tâm ngã mạn, con hãy coi chúng ta không là cái gì hết, chẳng ai thèm để ý đến chúng ta hết. Chúng ta là người ăn xin tầm thường nhất trên thế gian này! Tâm niệm được như vậy, bản ngã sẽ không có cơ hội tăng trưởng! 
 
Bất Ác phải chịu là đúng, nhưng lát sau lại xẩy ra vấn đề khác:  – Nóng quá Thầy à, chân con như muốn phỏng! 
 
Nhà Sư vẫn thản nhiên:   – Nóng thì phỏng chân chứ có gì lạ đâu con? Nó rất hợp với tự nhiên mà! 
 
Bất Ác nói:  – Đúng thì đúng, nhưng bây giờ phải làm sao? 
 
– Thầy có muốn làm sao đâu? 
 
– Nhưng nóng chân quá, con không chịu nổi! 
 
Nhà Sư mỉm cười:  – Vậy thì dễ dàng thôi. Một là con bỏ cuộc, đầu hàng, tìm một bóng cây mà ngồi.    Hai là cứ tỉnh bơ ra đi, chấp nhận nó một cách hoàn toàn, không có điều kiện. 
 
– Con chấp nhận nó! 
 
– Vậy thì cứ an tĩnh mà bước đi. Bởi sợ nóng nên nóng nó sẽ tấn công con. Nếu con trọn vẹn nhìn ngắm sự nóng ấy, mỉm cười với nó, xem nhẹ nó là nó sẽ bỏ đi. Nó sẽ hổ thẹn và bỏ đi! 
 
Chịu đựng một lúc, Bất Ác lại la lên:    – Vẫn nóng quá Thầy à! 
 
– Thầy sẽ cho con thêm khí giới mới, nghị lực mới. Hãy coi thường thân xác, khinh bỉ thân xác. Một chút nóng ở ngoài da đâu bằng lửa địa ngục. Không chịu nổi một chút nóng, thì làm sao đeo đuổi được con đường gian nan, thiên vạn lý, để đạt đạo quả Vô Thượng Bồ Đề, hở con? 
 
Một chốc, Bất Ác vẫn nhăn mặt, Nhà Sư gắt: 
 
– Không thể dừng lại được nữa. Hãy đi! Phải coi đây là cuộc chiến đấu sống còn. Nếu con đi qua đoạn đường này với tâm vô ngã, mát mẻ và vắng lặng là con đã kề bên Niết Bàn! 
 
Lời khích lệ cuối cùng như một tác động tâm lý cực mạnh, làm cho Bất Ác mỉm được nụ cười thản nhiên, mặc dầu lòng bàn chân đã rát bỏng. 
 
Đến đoạn đường hai bên có cỏ mọc, Bất Ác reo lên:   – Thế là con đã "gần đạt đạo". 
 
Nhà Sư nghiêm mặt:   – Đừng tự đắc, tự mãn. Làm thế nào đạt đạo được với bản ngã to lớn hiện giờ ở trong con? 
 
Bất Ác le lưỡi.  
 
Họ dừng chân nơi một miếu hoang. Bất Ác xoa chân xong rồi nằm dài ra thở, mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Nhà Sư ngồi lặng, mỉm cười tự nhủ: 
 
– "Nếu được gọi là khổ hạnh, thì đấy là một khổ hạnh cần thiết cho những kẻ bản chất mềm yếu, thiếu nghị lực như Bất Ác. Phải tập cho nó cứng và mạnh. Phải tập cho nó có ý chí hơn, kiên định hơn, dõng lực hơn…" 
 
Đưa mắt nhìn xóm nhà ven đường, Nhà Sư ôm bát đứng dậy. Khi ấy một người đàn ông đi ngang qua cũng vừa dừng xe lại. 
 
– Bạch Thầy! Thầy đi đâu giữa đường nắng nôi như thế? 
 
Ngước lên, thấy một đệ tử, là một thiện nam, học thức, nhiều tín tâm; Nhà Sư mỉm cười:   – À con đấy à! Thầy đang chuẩn bị đi bát đây! 
 
Người Phật tử dựng xe, chấp tay xá thật sâu, cười sung sướng:
 
– Vậy là may mắn cho con! Sắp đúng ngọ rồi, xin thỉnh Thầy về nhà con, cũng gần đây thôi, để chúng con có dịp cúng dường một bữa. 
 
Nhà Sư im lặng nhận lời. 
 
Bất Ác thở ra một hơi dài nhẹ nhõm! 
 
*** 
 
Độ ngọ xong, cả nhà quây quần dưới giàn dưa tây mát mẻ, Nhà Sư nói về Tam Quy và Ngũ Giới, tóm tắt như sau: 
 
– Từ lâu, chư Phật Tử đã có nơi nương tựa. Quý vị nương tựa nơi Tam Bảo, nơi Phật, nơi Pháp, nơi Tăng. Nhưng quí vị còn nương tựa ở đâu nữa? Quý vị còn phải nương tựa nơi sự giác ngộ giải thoát, nương tựa nơi sự sáng suốt, nương tựa nơi cái Bồ Đề Tâm, nương tựa nơi khả năng thành Phật của chính mình.   Đấy là nghĩa thứ hai của qui y Phật. 
 
Quý vị quy y Pháp, còn có nghĩa là nương tựa chân lý, nương tựa sự thật, nương tựa vào cái như thật trong lòng mình. Đấy là nghĩa thứ hai của quy y Pháp.
  
Quý vị quy y Tăng, còn có nghĩa là nương tựa vào những đức tính cao cả của Tăng sẵn có trong quý vị, ấy chính là chơn chánh, chánh hạnh, hiền thiện, thanh tịnh, trực hạnh… Đấy là nghĩa thứ hai của quy y Tăng. 
 
Nghĩa thứ hai của quy y Tam Bảo này có công năng khai mở trí tuệ, thấy rõ đám mây mù của Vô MinhÁi Dục, để xô vẹt, đoạn lìa vô lượng phiền não và nghiệp chướng, trả lại khung trời bình yên và chân phúc cho tất cả chúng ta.
 
Những lời giảng về quy y Tam Bảo này có vẻ mới lạ nên cả nhà lắng nghe một cách chăm chú, thật chăm chú. Biết vậy, Nhà Sư nói thêm về Ngũ Giới: 
 
– Chư Phật tử! Quý vị đã biết rằng Ngũ Giới không phải là điều luật bắt buộc; nó là hàng rào ngăn giữ những vọng động của thân, khẩu, ý. Giữ được một giới là ngăn được một điều ác, giữ được năm giới là ngăn được năm điều xấu. Giữ Ngũ Giới là ngăn chặn những vọng động do tham, sân và si – là các nguyên nhân đưa đến đau khổ trong tương lai. 
 
Đến ngang đây thì một người nói :   – Thưa Thầy! Giữ Ngũ Giới quả thật là khó! 
 
Nhà Sư đáp: 
 
– Đúng thế, ngay thời Đức Phật mà các hàng cận sự nam nữ cũng ta thán với Ngài như vậy. Nhưng phải hiểu rằng, ngay chính nơi tâm thái chăm chú và trầm lặng lắng nghe như vừa rồi, quý vị đã thọ trì trọn vẹn Ngũ Giới! 
 
Thấy mọi người có vẻ ngơ ngác, Nhà Sư tiếp: 
 
– Khi chăm chú và trầm lặng lắng nghe, thì chư vị đang mở rộng tâm hồn; ở trong chư vị chan hòa một cảm giao, cảm ứng mênh mông. Khi ấy những cái gọi là hung dữ, độc ác, hiềm thù, ganh ghét… những thuộc tính của tâm sân ấy có tồn tại trong tâm quý vị không? Ngay khi ấy quý vị có móng khởi giết hại? Quý vị có tác ý tiêu diệt sự sống, sát hại sanh mạng? 
 
– Dạ không! 
 
– Lại nữa, khi chăm chú và trầm lặng lắng nghe như vậy, tâm của chư vị sẽ công bằng và chánh trực; quý vị không hề khởi niệm chiếm đoạt tài sản, của cải vật chất của người. Quý vị đâu có tham lam, xan tham mà phạm giới trộm cắp, có phải thế không? 
 
– Quả đúng vậy. 
 
– Cũng từ tâm thái chăm chú và trầm lặng lắng nghe như vậy, quý vị có sanh tâm tà dâm hoặc tà hạnh? 
 
– Dạ không!
  
– Quý vị có nói dối? Rộng và đầy đủ hơn nữa, quý vị có nói lời điêu ngoa, xảo trá, nói hai lưỡi, nói đâm thọc, nói trườn uốn như con lươn, nói ngọt như đường, nói trơn như mỡ, nói thêu dệt, nói hoa ngôn xảo ngữ? Nói như vậy để làm gì phải không? Biện hộ cái chi, bảo vệ điều gì, có phải thế không? 
 
– Phải rồi! Không thể vọng ngữ được. 
 
– Và thế nào là không uống rượu, các chất say? Chỉ ở trong tâm thái chăm chú và trầm tĩnh lắng nghe như kể trên, là quý vị sẽ không còn uống rượu, các chất say nữa. Vì sao vậy? Vì chư vị sẽ không còn muốn chạy trốn cái "bây giờ", quý vị sẽ không còn tìm quên, núp bóng trong những thỏa mãn nhất thời của cảm giác, của ảo giác. Chí đến những nhu cầu khoái lạc cho tri thức, quý vị cũng không cần nữa. Vì quý vị đã đầy đủ tất cả: niềm bình an vô lượng và sự tĩnh lặng phi thường. Như thế quý vị đã có được "chất rượu vĩnh cửu" rồi, quý vị còn cần gì nữa chất say tầm thường trên thế gian? 
 
Nói tóm lại, ở cả hai phương diện tiêu cực và tích cực, Ngũ Giới có công năng khai phóng và đem con người ra khỏi mọi ám ảnh tội lỗi, sợ hãi, là giải thoát tâm; chuẩn bị cho giải thoát trí, là con đường tối hậu của Chư Phật ba đời.
 
Nhà Sư nói xong, không gian im lặng. Hai vợ chồng giáo sư già cùng vợ chồng con cái, cháu chắt, dâu rể gồm bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, bộ đội, công nhân, sinh viên, mấy người giúp việc… cả thảy gần hai mươi người bỗng đâm ra trầm mặc, không ai nói gì, không ai hỏi gì. 
 
Chị Tư lặng lẽ đứng dậy, dâng cho Nhà Sư ly chanh đá. Chị nói: 
 
– Thầy nói Ngũ Giới mà cao siêu quá, con không hiểu gì hết. Xin Thầy giảng cho bình dân tí nữa, vì con không thể như ông bà, thầy cô trí thức ở đây được. 
 
Nhà Sư cười:   – Khi con kính thành đem dâng cho Thầy ly nước, trong tâm thái ấy, con đã giữ tròn Ngũ Giới mà con không biết sao? 
 
Mọi người chợt cười ồ. Chị Tư bẽn lẽn đi lẫn vào phía sau, nói lí nhí:   Bạch Thầy, con không hiểu.
 
– Phải rồi, con không hiểu là phải. Vì khi dâng ly nước, tâm con chỉ còn là sự kính thành vắng lặng, chứ không có ý nghĩ gì khác có phải vậy chăng? 
 
– Dạ… 
 
– Khi ấy con có khởi niệm sân hận, độc ác, hung dữ, giết người, giết vật? 
 
– Dạ không… 
 
– Khi ấy con có khởi niệm tham lam chiếm đoạt của người, cướp bóc của người? 
 
– Dạ không… 
 
– Khi ấy con có khởi niệm tà tâm, tà vạy, tà hạnh, bất chánh? 
 
– Dạ không… 
 
– Khi ấy con có chạy trốn sự thật mà sinh ra nói dối, nói trườn uốn và những cách nói hư vọng khác? 
 
– Dạ không.. 
 
– Khi ấy con có muốn tìm quên cái hiện tại, chìm đắm trong những ảo giác, cảm giác… như là dùng các chất say? 
 
– Dạ không… 
 
Nhà Sư cười khẽ: 
 
– Như vậy đấy. Khi con kính thành, thương yêu ông bà, các thầy, các cô, các em… cùng tất cả mọi người xung quanh, là con đã giữ tròn Ngũ Giới một cách rốt ráo. Bằng ngược lại là con đã phá giới, tâm con đã phá giới. 
 
Chị Tư có vẻ chăm chú lắng nghe. Chị thưa:   – Con chỉ hiểu được một tí, nhưng xin thầy giảng thêm. 
 
Nhà Sư quay sang phía chị:   – Con hãy thử nói lên một công việc gì mà con thường làm trong ngày cho Thầy nghe xem nào. 
 
– Bạch Thầy, như rửa chén bát, nồi niêu, xoong chảo… 
 
Mọi người cười vui, Nhà Sư cũng mỉm cười:   – Phải rồi, như rửa chén bát vậy. Nếu con rửa không sạch, thì sâu xa, con đã phá giới. 
 
Mọi người yên lặng lắng nghe, Nhà Sư nói tiếp: 
 
– Rửa chén bát không sạch, là vì lúc ấy tâm con đang bồn chồn, nóng nảy, muốn làm cho mau xong. Con có biết tất cả những cái gọi là bồn chồn, nóng nảy, muốn làm cho mau xong… ấy, nó phát sanh từ đâu? Gốc của nó chính là tâm sân, con có biết không? 
 
Có người la lên:   – Đúng thế! Thật là khủng khiếp! 
 
Người khác lại nói:    – Trông thì bình thường nhưng khi phân tích ra mới thấy rõ được cái gốc phát sanh tội. 
 
Nhà Sư tiếp lời:    – Sát sanh phát sanh bởi tâm sân hận, còn trộm cắp sinh ra từ tâm tham lam.
  

Chị Tư thưa :  Xin thầy cho ví dụ 

 
– Được rồi, nghe nhé! Con làm việc trong ngày, ông bà sẽ trả cho con một số tiền tương đương với khối lượng công việc mà con phải làm. Vì mong việc chóng thành, con đã làm cẩu thả, làm cho có lệ. Như vậy, việc gì cũng làm, nhưng việc gì cũng không tới nơi tới chốn. Suy nghĩ cho sâu xa, là con đã đánh cắp thời gian, tiền bạc của ông bà một cách khéo léo. Vậy khi rửa chén bát không sạch là tâm con đã vi phạm giới thứ hai này một cách thật tinh vi, khó có người biết được! 
 
Có tiếng "a" có vẻ ngạc nhiên. Nhà Sư vẫn đều đều cất giọng: 
 
– Thấy không, do tham, do sân, chúng ta đã nuôi dưỡng tâm sát, tâm trộm cắp. Cũng do tham do sân, chúng ta còn nuôi dưỡng thêm tà niệm, tà vạy, rồi dung dưỡng cả những cách nói thiếu chân thật. Tại sao lại phạm luôn giới ẩm tửu? Vì rằng, kẻ dùng những chất say là kẻ tự đánh lừa mình bằng những ảo giác, những hưng phấn giả tạo. Ở đây, ngay khi rửa chén bát không sạch, làm công việc cho mau qua, mau xong là chúng ta cũng muốn tìm thụ hưởng bằng sự nhàn rỗi, nghỉ ngơi… Thỏa mãn, thụ hưởng, nhàn rỗi, nghỉ ngơi… là chúng ta đã dùng các chất say dưới hình thức khác, không hơn không kém. 
 
Cuối cùng, Nhà Sư kết luận: 
 
– Vì tham, vì sân, chúng sanh phạm sát, đạo, dâm, vọng, tửu. Vì tham, vì sân mà chúng sanh trầm luân mãi giữa biển đời sinh tử khổ đau. Ngũ giới nhằm xa lìa những ác nghiệp tiền căn và cắt đứt mọi trói buộc do những vọng tâm sai sử. Như vậy, kẻ giữ Ngũ Giới đúng nghĩa là phải đoạn tuyệt tham sân, đúng như Pháp Cú kinh, Phật thuyết: "Như bông lài buông rơi những cánh hoa tàn úa, cùng thế ấy, này chư Tỳ kheo, hãy buông bỏ tham sân". Kẻ nào sát sanh, lấy của người mà không được cho, lân la vợ người, nói lời hư vọng và dễ duôi dùng chất say, kẻ ấy đã tự đào lỗ chôn mình. 
 
Vậy nầy chư Phật tử! Hãy bảo trọng Tam Quy và Ngũ Giới như bảo trọng con ngươi của mắt mình, như chim bảo vệ cặp cánh, như người mẹ bảo vệ đứa con ruột… Chớ quên! Chớ dễ duôi! Chớ quên! Chớ phóng dật!
 
Theo: Chuyện cửa thiền