Trang chủ Văn học Bên Thầy Mãn Giác – những ngày ngắn ngủi không thể nào...

Bên Thầy Mãn Giác – những ngày ngắn ngủi không thể nào quên

72

Tôi điện thọai cho nhà tôi ở Huế biết, nhà tôi kêu lên :”Mô Phật, mới nghe anh Ch.Th. – đệ tử của Thầy vừa về Huế nói Thầy đã khá hơn, hồi tháng 5 -2006 anh ghé thăm Thầy ở Bệnh viện Good Samaritan kia mà ! Như thế làm sao sắp đến anh còn được gặp Thầy nữa ?” – “Chuyện sinh ký, tử qui ai mà biết trước được ! Thôi em hãy hướng về trời Los Angeles cầu nguyện cho giác linh của Thầy sớm về cõi Phật. Và, anh cũng thế”. 


Nhà tôi học cùng lớp với Trần Kiêm Đoàn thuộc thế hệ sinh viên của  Thầy Thích Mãn Giác thời gian Thầy về làm Giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Văn khoa Huế (1967-1970). Còn tôi là Sinh viên Phật tử, có quan hệ  với Thầy trong những năm tham gia cuộc vận động của Phật giáo từ 1963 đến 1966. Thầy Mãn Giác ở Nhật còn chúng tôi ở Huế. Họat động đấu tranh của Phật giáo trong nước luôn được Thầy ở Nhật ủng hộ. Chín năm đi kháng chiến tôi không còn liên lạc được với Thầy nhưng qua các cơ sở vốn là sinh viên Phật tử, tôi biết có thời Thầy làm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Thanh niên, lãnh đạo các Đoàn Sinh viên Phật tử và Thầy luôn quan tâm đến các đòan viên Đòan Sinh viên Phật tử dù người đó “ở bên nầy hay bên kia”. Sau năm 1975 tôi về Huế, chưa được gặp lại Thầy thì được tin Thầy đã vượt biên (1977) qua châu Á rồi châu Mỹ. Hai thầy trò tưởng như đã ở hai thế giới. Không ngờ đến giữa những năm Chín mươi, qua các Phật tử ở Houston (Texas) và Phật tử trong Nhóm Giao Điểm ở Nam Ca-li về thăm Huế, tôi liên lạc được với Thầy, “hai thế giới” được Thầy nối lại bằng điện thọai viễn liên. Nhiều khi gia đình chúng tôi được hầu chuyện với Thầy suốt cả tiếng đồng hồ bất kể khuya sớm chiều tối. Những đệ tử của Thầy có dịp về thăm Huế, Thầy không quên nhắc họ tìm thăm tôi. Năm 2002, diễn viên điện ảnh Kiều Chinh về Quảng Trị làm từ thiện, Thầy bảo chị khi ghé ngang qua Huế hãy tìm gặp tôi. Đây là một bất ngờ đối với tôi. Hồi còn là học sinh Trung học, chúng tôi rất thích thú được xem chị Kiều Chinh với Lê Quỳnh đóng phim Hồi Chuông Thiên Mụ ở ngay chùa Thiên Mụ. Tôi không thể ngờ gần đến cái tuổi cổ lai hy nầy rồi mà tôi vẫn còn có dịp gặp được chị Kiều Chinh. Sở dĩ có sự bất ngờ ấy là nhờ sự quan tâm của Thầy Mãn Giác dành cho một đệ tử cũ của Thầy.   


Những điều Thầy dạy bảo qua thư từ cũng như những lần qua điện thọai viễn liên, liên quan đến chuyện thơ văn, chuyện nghiên cứu các vị tổ Thiền sư Việt Nam, chuyện những năm tranh đấu ở các đô thị miền Nam Việt Nam. Thầy cũng gởi cho tôi những trước tác mới của Thầy. Nhờ những “thông tin lịch sử” của Thầy, tôi hiểu Huế tôi hơn. Sau những lần gặp gỡ bao giờ Thầy cũng nhắc đến hai việc quan trọng : Một là, Thầy nhắc tôi với tư cách là người viết sử nên quan tâm đến các vị Tỳ-kheo đã lãnh đạo các Đoàn Sinh viên Phật tử, quan tâm đến các cư sĩ có nhiều đóng góp với Đạo pháp và Dân tộc ở Huế như bác sĩ Lê Đình Thám, bác sĩ Thân Trọng Phước, bác sĩ Lê Khắc Quyến, nhà văn Võ Đình Cường, bác Đội Thăng, nhạc sĩ Văn Giảng, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba, cư sĩ Nguyễn Khắc Từ, cư sĩ Phan Văn Gái.v.v. Hai là, Thầy nhớ Việt Nam quá, nhớ cảnh, nhớ chùa, nhớ Phật tử cực khổ gian nan trong những năm tháng chiến tranh, Thầy muốn gặp lại họ trong hoàn cảnh đất nước hòa bình và cũng để cho họ gặp lại Thầy cho thỏa lòng mong nhớ.  


Vào đầu năm nay (2006), tôi được tin Thầy bị tai biến mạch máu não, bệnh tình tưởng chừng không qua khỏi. Vợ chồng chúng tôi lặng người trước cái tin dữ nầy. Rồi một hôm, sau tết Bính Tuất, vào lúc nửa đêm, chuông điện reo, tôi nghe thều thào ở đầu dây bên kia:- “Thầy đây ! Nhớ …Việt Nam, các con quá ! Sao …các con không qua thăm Thầy ?”Sau mấy phút tĩnh người tôi mới nhận ra tiếng nói của Thầy. Trời ơi, đối với tôi chuyện đi Mỹ đâu có giống như đi  Pháp muốn đi là có thể đi được ! Hơn nữa, đầu năm 2006 gia đình chúng tôi phải chuẩn bị cho lễ Vu qui của cháu gái thứ hai, tôi đâu có rời Việt Nam được. Nếu có đi đâu xa cũng phải đợi đến mùa thu 2006 kia. Nhưng sau khi nghe tiếng Thầy hỏi tôi có cảm giác như tiếng nói của người ở thế giới bên kia. Câu hỏi của Thầy giống như một cái lệnh. Không kịp suy tính đắn đo gì nữa tôi đáp:- ” A-di-đà Phật, con sẽ qua đãnh lễ Thầy, nếu được Chính phủ Hoa Kỳ cấp vi-sa !” – “Thầy chờ con !“.


Tôi đem chuyện ấy báo với các anh trong Nhóm Giao Điểm. Rồi thầy Thích Trí Hoằng ở Massachusetts lo thủ tục cho tôi đi Hoa Kỳ. Và thật không ngờ, chuyện tôi đi Hoa Kỳ thăm Thầy Thích Mãn Giác còn dễ dàng hơn lần đầu đi Pháp cách đây đúng mười năm.     Vào 11giờ50 ngày 12 – 4 – 2006, anh bạn Hoàng Phấn trong Nhóm Giao Điểm đón tôi ở sân bay Burbank/Los Angeles và anh lái xe chạy thẳng một mạch về chùa Việt Nam. Lúc ấy các thị giả đang chuẩn bị bữa ngọ trai cho Thầy. Thấy tôi bước vào phòng, Thầy đưa tay ra hiệu cho các thị giả tạm dừng bữa cơm để Thầy tiếp tôi.  Tôi chắp tay vái, Thầy kéo tôi vào lòng và ôm tôi mếu máo khóc thút thít. Thầy ôm tôi với nỗi nhớ thương đối với mấy trăm sinh viên Phật tử  ngày xưa của Thầy. Tôi cũng không cầm được nước mắt nên cũng khóc. Sau phút gặp gỡ xúc động, Thầy bảo thị giả dọn cơm cho tôi cùng ăn với Thầy. Sau trận tai biến, Thầy không tự và cơm được nên các thị giả thay nhau phục vụ Thầy. Bữa cơm chay đầu tiên của tôi ở Mỹ lại được ngồi cạnh một vị Hòa thượng thi sĩ – Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ thì thật là một vinh dự hiếm có trong cuộc đời theo Đạo Phật của tôi. Các thức ăn chay rất ngon nhưng vì quá cảm động tôi chưa ăn được mấy đã thấy cảm thấy no.            


Ngọ trai xong, Thầy bảo tôi ngồi bên cạnh để nói chuyện. Nhiều câu nhiều chữ Thầy nói không rõ, Thầy viết lên giấy cho tôi hiểu.             Thầy hỏi tôi về trường hợp hy sinh của các bạn Sinh viên Phật tử là Nguyễn Thiết, Lê Minh Trường, Nguyễn Đức Thuận, Vĩnh Kha…Thầy nhắc lại những chuyện Thầy đã bảo tôi qua thư từ và điện thọai viễn liên mấy năm qua. Thầy gọi tôi qua Hoa Kỳ để Thầy nói tiếp những chuyện không tiện nói qua điện thoại: Chuyện Thầy làm Chủ tịch Hội Trùng tu Cố đô Huế sau năm 1968, chuyện Thầy vượt biên năm 1977, chuyện lúc qua đời thầy Thiện Minh còn một mảnh đạn của chế độ Thiệu Kỳ trong người, chuyện Thầy đã tổ chức cho ba người thanh niên Huế ra Bắc. Đó là  các Phật tử Võ Văn Ái, Mai Khắc Thuận (sau nầy đổi tên là Nguyễn Khắc Mai), Tôn Thất Thanh.  Nhưng Thầy không hiểu vì sao Võ Văn Ái bị trả  lại và sau nầy Võ Văn Ái chống lại miền Bắc một cách nghiệt ngã. Thầy cũng nhắc đến ông Trần Thanh Đạm ở ĐHSP TP HCM sau 1975. Thầy khen ông Trần Thanh Đạm là người Huế, rất phải chăng. Thầy rất tiếc không có dịp làm việc với ông Đạm.v.v.            


Sau mấy ngày nghe Thầy nói chuyện, tôi có được mấy chục trang bút đàm của Thầy. Lúc về TP HCM tôi đã gởi tặng ông Trần Thanh Đạm một trang giấy mà Thầy đã viết tên ông nhiều lần. Những trang bút đàm của Thầy Mãn Giác là những hiện vật quý của gia đình tôi hiện nay.              


Tôi được Thầy Mãn Giác thương nên các thầy ở chùa Việt Nam cũng quý tôi. Đặc biệt là thầy Như Minh – trụ trì chùa Việt Nam. Có hôm đi tham quan về tối, thầy Như Minh còn tranh thủ lái xe đưa tôi đi xem thành phố biển Santa Monica ban đêm. Tôi buồn ngủ muốn chết nhưng không dám từ chối. Tôi theo thầy Như Minh ra biển. Thầy muốn mua tặng tôi nhiều thứ kỷ niệm nhưng tôi chỉ xin 6 tấm bưu ảnh Los AngelesSanta Monica mà thôi.             


Sống với Thầy ở chùa Việt Nam tôi có cảm giác như được sống trong một ngôi chùa quen thuộc nào đó ở Huế. Nghe tôi nói cảm tưởng đó, các thầy chỉ cho tôi đọc hai câu thơ của Thầy Mãn Giác đã được Thư pháp treo trên tường phòng làm việc của Thầy:            


Mái chùa che chở hồn dân tộc


Nếp sống muôn đời của tổ tông”           


Hai câu thơ mộc mạc nhưng thể hiện được một sự thật của lịch sử văn hóa Việt Nam.            


Mấy hôm sau tôi tạm biệt Thầy để về Nam Ca-li. Trước khi đi, cũng như mọi hôm, tôi qua phòng Thầy nói chuyện và giúp đút cháo cho Thầy ăn sáng. Một lúc, có anh bạn trẻ đến đón giục tôi lên đường. Các thị giả bảo tôi đi và họ thay tôi đút tiếp cho Thầy ăn. Tôi xin phép Thầy đi Nam Ca-li và hứa sẽ trở lại ở với Thầy trước khi về Việt Nam. Thầy nhìn tôi với vẻ ngơ ngác làm cho tôi hết sức ngại ngùng. Tôi bước nhanh ra khỏi phòng để khỏi bịn rịn. Xuống đến đường, tôi mở cửa vào ngồi trong xe để có thể đi ngay. Nếu không có cuộc hẹn ở Đại học UCLA có lẽ tôi đã  hoãn chuyến đi ấy rồi. Bất ngờ có người trong chùa chạy ra xe và gọi tôi:           


 – “Ôn gọi anh vào Ôn gặp đã rồi hãy đi !”.            


Tôi xuống xe vội vàng leo lên cầu thang vào phòng làm việc của Thầy. Thầy giơ tay bảo tôi ngồi đó và Thầy đứng dậy bước vào phòng riêng. Anh Ch.Th. bước theo vịn Thầy. Thầy đi được mấy bước thì xiu xiu, tôi nhảy tới ôm Thầy nhưng không ôm nổi, anh Ch.Th. và tôi cùng ngã theo Thầy làm cho mấy bức tranh treo tường bị tôi vớ phải rách luôn. Tôi hết sức hoảng hốt nhưng cũng cố đỡ Thầy lê vào giường ngủ. Thầy rất tỉnh táo với tay mở cái ngăn ở đầu giường lấy đưa cho tôi 200 USD. Hồn vía tôi lúc đó đang hoảng loạn nên Thầy nói gì đó tôi cũng không nghe. Tôi không dám từ chối nhưng cũng không biết lầy làm gì. Sau tôi mới nghe các thị giả bảo Thầy cho để tôi có tiền xuống Quận Cam mua sách. Vì thế xuống Quận Cam tôi sử dụng tiền Thầy cho mua những sách về lịch sử Phật giáo năm 1963 và sách của Thầy. Số sách đó tôi đem về Huế đặt trên lò sưởi ngay trước bàn viết của tôi. Mỗi lần liếc nhìn chồng sách mua ở Quận Cam tôi không khỏi rùng mình.  Bây giờ ngồi viết mấy dòng nầy mà còn cảm thấy buốt lạnh trong xương sống. Nếu hôm đó mà Thầy mệnh hệ gì thì tôi làm sao sống nổi với với lương tâm tôi và với Phật tử Việt Nam !            


Tôi đi Nam Ca-li rồi mê man theo bạn bè qua Las Vegas, Houston, lên Washington, New York, Massachusetts, Boston qua tận Toronto Canada. Trong lúc rong chơi như thế tôi được tin Thầy được đưa vào bệnh viện để giải phẫu một cục u trong não và hy vọng sau khi giải phẫu Thầy có thể cử động và nói tốt hơn. Tôi rất mừng. Chiều ngày 10-04-2006  tôi trở lại Los và được anh Tôn Thất An Cựu từ Quận Cam lên chở vào Bệnh viện thăm Thầy. Xe chạy đến khu vực Trung tâm Y tế ở Los  thì con đường trước mặt bị cảnh sát chận lại vì có một vụ phạm pháp nào đó đang diễn ra. Anh An Cựu đưa xe vào Parking bên đường. Nhìn kỹ, thấy Parking nầy chỉ dành cho thực khách Nhật Bản của một Quán ăn gần đó, và chỉ được đổ trong một giờ, nếu quá sẽ bị Tow. Anh An Cựu cho xe lui ra đường cái đậu trước một trụ đồng hồ rồi lấy tiền xu đút vào miệng đồng hồ với thời gian đậu một tiếng. Tôi hơi ngại nên đưa tiền xu cho anh An Cựu bỏ thêm, anh chỉ lấy thêm 25 xu. Sau đó hai anh em vừa đi vừa hỏi dò tìm đường đến Bệnh viện Good Samaritan.Bệnh viện Good Samaritan là chỗ thân quen của Chùa Việt Nam, các thầy thuốc ở đó biết rõ bệnh tình của Thầy và họ rất quý trọng Thầy.  Vào phòng, tôi thấy Thầy mặc quần áo rằn của bệnh viện, trông rất lạ. Chung quanh Thầy là các thị giả và Phật tử ở các Tiểu bang của nước Mỹ đến thăm Thầy. Tôi đến cạnh Thầy, Thầy nắm lấy tay tôi và lại khóc một cách hồn nhiên làm cho tôi bối rối vô cùng trước các Phật tử của Thầy. Một thị giả giới thiệu tôi với mọi người :-” Đây là anh Đắc Xuân, đệ tử của Thầy Mãn Giác từ 40 năm trước, từ Việt Nam qua thăm Thầy”. Bổng có tiếng nói lớn với sự ngạc nhiên:- ” Anh Hồ Đắc Xuân hả ? Một người Huế rất nổi tiếng.” Nghe thế, Thầy lắc đầu và đính chính ngay:- ” Nguyễn Đắc Xuân, không phải Hồ…!” Người nhầm tôi họ Hồ là một Phật tử gốc Huế đến từ Tiểu bang Florida.  Anh đến bắt tay tôi và tỏ ra có cảm tình với tôi. Anh bảo:-“Bà con Phật tử ngoài nầy rất kỳ vọng tiếng nói của các nhà văn hóa trong nước. Làm sao ngăn chặn cho được sự xâm nhập của các đạo độc thần vào Việt Nam. Nếu họ vào được thì đất nước làm sao có hoà bình, làm sao xây dựng được !”. Nghe thế, Thầy không nói gì nhưng gật đầu tỏ ra đồng tình. Tôi đứng lặng yên bên Thầy khá lâu. Khi anh An Cựu nói chuyện với những người chung quanh xong, có ý muốn chia tay, tôi định chia tay Thầy để về theo anh An Cựu.  Nhưng tôi không thể rút tay ra khỏi bàn tay nắm chặt của Thầy. Tôi thử nhiều lần mà vẫn không được. Thầy cứ khóc làm sao tôi có thể dứt ra khỏi tay Thầy được. Dùng dằng mãi thêm một tiếng đồng hồ nữa tôi mới chia tay được Thầy.


Khi chúng tôi ra khỏi Bệnh viện thì đèn đường đã bật sáng. Đi bộ về chỗ để xe, thì hỡi ôi chiếc xe màu bạc của anh An Cựu không cánh mà bay. Tôi lại một phen sửng sốt. Vì đưa tôi đi thăm Thầy mà anh An Cựu mất xe. Ở Mỹ, chiếc xe như đôi chân vạn dặm, không có xe chỉ  nằm nhà chịu đói thôi. Hai anh em chạy loanh quanh hỏi nhưng không một người nào biết cả.  Anh An Cựu là dân Orange County nên không rành Los lắm nên cũng lúng túng. Tôi không biết ăn làm sao, nói làm sao để chia xẻ bớt lo lắng của anh bạn cùng quê tốt bụng. Biết thế nên chính anh An Cựu lại trấn an tôi:”Chiều nay tôi đưa anh vào thăm Ôn được như thế là quý rồi. Chưa chắc anh còn có cơ hội gặp Ôn nữa. Còn tôi, mất chiếc xe nầy cũng tiếc nhưng các con tôi dư xe tôi có thể có một chiếc xe khác. Anh yên tâm. Tại tôi chứ đâu phải tại anh !” Chạy ngược chạy xuôi không tìm được xe, cuối cùng anh An Cựu phone báo tin mất xe với anh Trần Tuệ (một cư sĩ gốc Huế) đang chờ chúng tôi về chùa Việt Nam để đi ăn tối. Anh Tuệ nói không can chi. Một lúc anh Tuệ lái xe đến rất vui vẻ. Anh bảo không mất đâu, mình đậu xe vào đường cấm đậu xe sau 4giờ30’ nên cảnh sát cho “tâu” (tow) đi đó. Nghe thế tôi mới yên tâm để đi ăn tối. Đúng như thế, hôm sau anh An Cựu được Cảnh sát Mỹ gọi đến nộp phạt 300 USD và được lái xe về. Tôi xem như vừa được anh An Cựu cho tôi 300 USD và tôi đã sử dụng số tiền đó đi thăm Thầy tôi. Như thế cũng còn quá rẻ.


*       *     *    



Từ ngày rời Los, tôi cứ đinh ninh là Thầy đã được ngành y học của Hoa Kỳ cứu chữa. Ý tưởng đó càng được củng cố khi mới đây được vợ chồng anh Ch.Thọ về thăm Huế cho biết Thầy đã khá hơn trước, nói rõ hơn. Và, không rõ từ nguôn tin nào bà xã tôi cho biết Thầy đang nhờ Thầy Nhất Hạnh ở bên Pháp làm giấy tờ để Thầy cùng về Việt Nam vào đầu năm sau. Không ngờ sự thực lại không giống như mình tưởng. Thầy đã vĩnh viễn ra đi. Không ngờ lần tạm biệt Thầy ở bệnh viện đã trở thành vĩnh biệt.  


Vĩnh biệt Thầy chúng con chỉ biết cúi đầu đãnh lễ xin hứa với Thầy sẽ thực hiện những điều Thầy dạy bảo “Góp phần lấp đầy những khoản trống trong lịch sử Phật giáo Thuận Hóa Phú Xuân”.                                       

Việt Nam, 19-10-2006