Trang chủ Văn học Hoàng Quang Thuận – Sứ giả của Phật Hoàng Trần Nhân Tông?...

Hoàng Quang Thuận – Sứ giả của Phật Hoàng Trần Nhân Tông? (2)

Bài 2 – Thi Vân Yên Tử, Ngoạ Vân Yên Tử – Cuộc đời, con người, Phật Hoàng Trần Nhân Tông 

Đọc Thi Vân Yên Tử, Ngoạ Vân Yên Tử  chúng ta sẽ cảm nhận được cuộc sống của một thiền nhân đắc đạo, một tâm hồn thi sĩ xuất thế, lạc quan đầy lòng từ bi… Người đó không ai khác chính là Phật Hoàng Trần Nhân Tông.

Khi nói đến điều này có thể nhiều người hay giới văn chương còn e ngại, nhưng đối với các Phật tử hiểu biết về Thiền phái Trúc lâm, về Phật Hoàng, về núi thiêng Yên Tử, họ có thể hồn nhiên trả lời rằng, những vần thơ này là của chính Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập hồn lưu bút để gửi lại cho hậu thế.

Hoàng Quang Thuận chỉ là sứ giả, người chuyển giao những tâm tư nguyện vọng của ngài đến ngàn đời con cháu đất Việt.

Thử lắng tâm đọc những vần thơ trong 3 tuyển tập ta thấy, man mác tâm trạng trở về nơi cảnh xưa chốn cũ của ngài trước sự đổ nát hoang tàn do thiên nhiên và con người tàn phá.

Xiêu xiêu cây đại trắng nở hoa
Đây đúng nơi xưa chùa Yên Hoa
Tần ngần dạo bước vân phong vũ
Cảnh cũ người xưa có đây mà
. (Danh sơn Yên Tử)

Yên Tử Thầy ơi! Con tới đây
Mênh mông mây núi bóng Sư thầy
Trăm năm duyên kiếp còn lưu lại
Lối cũ đường xưa ngập cỏ cây.
(Vân du Yên Tử)

Đất Phật cõi thiêng đầy bí ẩn
Danh sơn Yên Tử Trúc Thiền lâm
Ta muốn về đây nơi cảnh cũ
Yên Trung thủy mặc nước trong ngần.

Viên gạch Hoa Cúc đời nhà Trần
Phù điêu sư tử sứ hoa vân
Vẫn ba gốc đại ngày xưa ấy
Bao năm xa cách vẫn thấy gần
. (Danh sơn Yên Tử)

Nước chảy xuôi dòng cùng năm tháng   
Am nhỏ chùa xưa chẳng đổi thay
Dấu tích vua trần về Yên Tử
Một dòng suối tắm giữa trời mây
(Ngoạ Vân Yên Tử)

Quạnh quẽ am xưa ánh dương tà
Phong quang thay đổi tiếng quạ xa
Ngọa am chùa báu mờ sương lạnh
Cây ổi trước chùa đã đơm hoa
. (Ngoạ Vân Yên Tử)

Đối với thiền tông, bản thể của vũ trụ là trống không, khi tâm đạt tới độ tĩnh tại tuyệt đối – tâm trong suốt vắng lặng thì có thể hòa nhập vào bản thể của vũ trụ vạn vật, điều đó đã tạo được sự giao hoà giữa con người với thiên nhiên, giữa cõi người với cõi trời.

Suối, hoa, cây cỏ, chim thú… trong thơ thiền cũng là sinh linh vạn vật trong vũ trụ có tâm hồn.

Thật sự khi đọc những bài thơ tả cảnh thiên của Phật Hoàng Trần Nhân Tông ta khó có một lời bình nào ngoài những từ: Qúa hay, quá tuyệt vời. Càng đọc càng thấy hay, càng đọc càng thấy thấm. Không thể nào diễn tả những áng thơ tuyệt tác đó bằng văn chương mà chỉ cảm nhận nó trực tiếp qua những câu  thơ đắt giá đến mức không thể dùng một câu từ nào thay thế được.

Vòng cung uốn lượn tựa mình rồng
Vươn mình thế núi hướng biển Đông
ẩn sâu khúc lượn trong lòng đất
Đầu rồng ngoảnh lại hướng Thăng Long
. (Yên Tử)

Chùa Đồng tọa lạc đỉnh Yên Sơn
Lô xô sóng núi gió mây vờn
Tiên cảnh Bồng Lai nơi trần thế
Rồng vàng ẩn hiện địa linh sơn
. (Chùa Đồng)

Ngọn nước như từ trời đổ xuống
Cây rừng khép tán nép bên khe
Mảnh trời ngọn tháp thiên thu thủy
Đâu biết nơi đây có nắng hè
! (Thác Vàng)

Núi đồi trùng điệp tiếng thác reo
ẩn khuất rừng già dốc cheo leo
Đại ngàn cảnh trí thiên kỳ vĩ
Tùng thông rợp bóng giữa lưng đèo
. (Xúc cảm non thiêng)

Trên non Yên Tử ngày trời quang:
Bức tranh thủy mặc dưới nắng vàng
Nhấp nhô như sóng triền đồi núi
Xa xa một dải Bạch Đằng giang.
Trời đất kỳ vĩ lòng xốn xang
Gió reo thánh thót những cung đàn
Chùa Đồng Yên Tử trời đất Phật
Ưu phiền trần tục thủy tiêu tan
.(Trời quang Yên Tử)

Núi thiêng Yên Tử, chốn Tổ cõi thiền Trúc Lâm đã chứng kiến biết bao  cuộc thăng trầm của lịch sử. Sự nghiệp phi thường của vua Trần Nhân Tông – một vị Bồ tát “đại hùng, đại lực, đại từ bi” đã  từ bỏ đài son điện ngọc, cung tần mỹ nữ, lên non xanh, nước biếc tu hành để thành Vua Phật như một huyền thoại của dân tộc Việt Nam.

Trần Nhân Tông đã vượt lên phàm nhân xuất thế để trở thành thánh nhân cứu độ muôn loài là một việc không dễ gì ai hiểu được. Những nỗi niềm của ngài qua những câu thơ  buồn lo trĩu nặng trước việc ra đi của ngài như một lời nhắn gửi lại hậu thế.

Từ bỏ ngôi vua để tu hành
Từ cái nhất thời cái hữu danh
Vĩnh hằng vô hạn, vua tìm đến
Yên Tử trường xuân hoá đất lành

Từ bỏ đài son điện ngọc ngà
Cung tần mỹ nữ chốn kiêu xa
Linh sơn yên Tử vua Trần đến
Kinh đô thành cũ mỗi bước xa. 

Non xanh cắt tóc dứt trần duyên
Vua đến nơi đây để nhập thiền
Không phải trốn đời và yếm thế
Cứu đời nhập thế với Phật Tiên 

Lòng vua trĩu nặng nỗi lo buồn
Cung nữ theo vua về sơn môn
Mênh mang u tịch rừng hoa vắng
Thung sâu vượn hú chẳng xóm thôn

Với người hành thiền, chỉ khi tâm tìm được chân như (trống không) mới có được lòng từ bi tròn đầy viên mãn. Chỉ khi có được sự  tĩnh tịch của tâm định mới tạo ra sự hỷ lạc, an bình, lạc quan.

Một con người sống cô độc giữa núi rừng trong cuộc sống khổ hạnh với nhu cầu vật chất ở mức thấp nhất đối với người thế gian không thể có được sự lạc quan vui vẻ như vậy.

Đó chính là sự khác biệt giữa thơ thiền với các thơ tả cảnh thiên nhiên thế gian khác.

Trưa hè oi ả tiếng suối reo
Chim ca lảnh lót giữa lưng đèo
Hoa rừng hương sắc hương theo gió
Đàn cá xuôi dòng nước trong veo.
Sớm cưỡi mây chơi cùng non biếc
Đêm về bến nghỉ lót trăng rằm
Tiếng sáo thiền ca vui bất tận
Ngập tràn Yên Tử trăng trong trăng
Lung linh huyền ảo ánh trăng rơi
Tiếng hạc trong đêm tận cõi trời
Hạ giới thần tiên hay đất Phật
Chị Hằng chú Cuội mãi rong chơi?
Tiếng mõ am xưa vua thiền định
Chim rừng buông cánh lặng nghe kinh
Hầu vượn từng bầy ngồi chật cửa
Muôn vật từ bi cõi nhân sinh
.

Qua thơ thiền, độc giả hành thiền không chỉ cảm nhận được cái hay, cái đẹp, sự từ bi cõi nhân sinh…của thơ, mà còn nhận ra những tư tưởng dựa trên sự chứng ngộ của các vị Thiền sư.

Vì vậy, không thể dùng trí tuệ thông thường để đánh giá thơ thiền Nếu chúng ta có mang những bài thơ thiền của Phật Hoàng Trần Nhân Tông đi dự giải Noben thì cũng không có người có đủ khả năng để đánh giá được hết sự siêu phàm của thơ thánh. Không thể dùng trí tuệ thế gian để đánh giá trí tuệ của thơ xuất thế gian .

Bài 3 – Ngoạ Vân Am ở đâu?