Trang chủ Tuổi trẻ Tăng Ni sinh Tăng Ni sinh khoá 5-6 Trường Trung cấp Phật Học Hà Nội...

Tăng Ni sinh khoá 5-6 Trường Trung cấp Phật Học Hà Nội ngoại khoá tại Yên Tử

115

Nằm trong chương trình giảng dạy và học tập của Tăng Ni sinh tại trường Trung cấp Phật học Hà Nội, cơ sở 2 Chùa Bà Đá, ngày 21 tháng 3 năm 2009, Ban Giám Hiệu nhà trường đã tổ chức cho Tăng – Ni sinh khoá 5 và 6 đang học tập tại trường đi học tập ngoại khoá tại Yên Tử – Nơi Phật Hoàng Trần Thánh Tông khai sinh ra Thiền Phái Trúc Lâm lớn nhất Việt nam.


Đại đức Thích Minh Ân – Phó chánh Văn phòng Trường Trung cấp Phật học Hà Nội; Sư cô Thích Đồng Hoà – Phó Chánh Văn phòng, kiêm Giảng sư Trường Trung cấp Phật học Hà Nội; Đại đức Thích Tâm Pháp – Giảng sư nhà trường; Sư cô Thích Minh Thịnh – Chánh đại diện Phật giáo huyện Đông Anh thay mặt cho Ban Giám hiệu nhà trường đưa hơn 200 Tăng – Ni sinh đi học tập ngoại khoá. Tham gia đoàn còn có lớp văn hoá học tại Chùa Bà Đá.


Yên Tử – Chốn tổ Linh thiêng của Thiền Phái Trúc Lâm, nơi đây hơn 700 năm trước, Phật Hoàng Trần Thánh Thánh Tông, một vị vua anh minh của Nhà Trần đã từ bỏ ngai vàng, quyền lực và mọi vinh hoa phú quý, thoát khỏi cõi trần tục để quy y. Khai sinh ra môn phái Thiền Trúc Lâm – Yên Tử. Để đến hôm nay, hàng vạn, hàng vạn các đệ tử đã nối gót theo Ngài.


Sư cô Thích Đồng Hoà cho biết: Trong quá trình tu tập tại nhà trường các Tăng – Ni sinh sẽ được nhà trường tổ chức những buổi học tập ngoại khoá, tham quan tại các Chùa, Thiền viện là trung tâm Phật giáo lớn trong cả nước để các Tăng – Ni sinh co điều kiện tiếp xúc và bổ xung kiến thức về Phật pháp, giáo lý.


Sau hơn hai giờ đồng hồ, đoàn các Thầy và Tăng – Ni sinh nhà trường đã đặt những bước chân đầu tiên trên mảnh đất linh thiêng Yên Tử. Tại chùa Hoa Yên đoàn đã niệm hương, dâng hương Tam tổ Trúc Lâm.


Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử có một vị trí rất đặc biệt giữa mối quan hệ Phật giáo và Văn hoá dân tộc. Đặc biệt là vai trò của Hoàng Đế – Thiền Sư – Thi sỹ Trần Nhân Tông ( 1258 – 1308) trên tư cách là bậc Sư tổ với Đạo hiệu Trúc Lâm Đại Đầu Đà, người đặt nền móng cho Thiền phái Trúc Lâm


Ðương thời, chắc chắn Ngài biết rõ các thiền phái ngoại nhập nổi tiếng nhiều đời như Tì Ni Ða Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Ðường nhưng lại hướng về tu tập, soạn sách Phật học theo một lối riêng và mở ra dòng Thiền Trúc Lâm in đậm dấu ấn Việt giữa nơi non cao Yên Tử.


Ðóng góp của Ngài mở rộng từ việc tuyên truyền đạo Phật giữa chúng sinh đến giảng giải kinh sách cho đệ tử, qua thơ văn đi sâu biện giải mối quan hệ giữa “hữu” và “vô”, “thân” và “tâm”, đề cao bản ngã chủ thể “nghiệp lặng”, “an nhàn thể tính”, “tự tại thân tâm”, “Sống giữa cõi trần, hãy tùy duyên mà vui với đạo”, đồng thời coi trọng cuộc sống thực tại, cảnh tỉnh lối tu hành cực đoan, cố chấp: Ai trói buộc chi, tìm giải thoát – Khác phàm đâu phải kiếm thần tiên (Mạn hứng ở sơn phòng)…


Nối tiếp Trần Nhân Tông, đệ nhị tổ Pháp Loa (Ðồng Kiên Cương, 1284-1330) cũng là người am hiểu Thiền học, có tài tổ chức các hoạt động Phật giáo. Qua hơn hai mươi năm lãnh đạo, Pháp Loa đã cho soạn khắc bộ Ðại Tạng kinh với hơn 5.000 quyển, xây dựng hàng trăm ngôi chùa như Báo Ân, Quỳnh Lâm, Thanh Mai và trực tiếp giảng dạy giáo lý, có tới ba nghìn đệ tử đến cầu pháp và đắc pháp. Ngài để lại các tác phẩm khuyên người xuất gia chăm lo việc tu đạo, khuyên mọi người hiểu sâu con đường tu thiền chân chính bằng việc học giới luật, thiền định và trí tuệ, chỉ rõ cách học cần sáng tỏ…


Người cuối cùng trong số ba vị tổ Trúc Lâm là Huyền Quang (Lý Ðạo Tái, 1254-1334), hơn Pháp Loa tròn ba mươi tuổi nhưng lại tu hành muộn hơn, từng làm quan trong triều đình rồi mới từ chức đi tu. Huyền Quang để lại hơn hai mươi bài thơ chữ Hán, một bài phú vịnh chùa Vân Yên bằng chữ Nôm và câu chuyện liên quan đến Ðiểm Bích đượm chất thế sự.


Với sự hiện diện của ba vị sư tổ Trần Nhân Tông – Pháp Loa – Huyền Quang và khoảng hơn ba mươi năm hưng thịnh, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã trở thành một biểu tượng giá trị tinh thần người Việt. Trên phương diện văn hóa vật thể, dấu tích những ngôi chùa, tháp, am, đường tùng, trúc, suối Giải Oan, vườn Ngự Dược, tượng đá An Kỳ Sinh, chùa Ðồng trên đỉnh núi hợp thành một quần thể sống động giữa nơi non cao rừng thẳm.


Chỉ nói riêng cái tên Trúc Lâm Yên Tử cũng đã khơi gợi được vẻ cổ kính và chiều sâu thế giới tâm linh mỗi người dân nước Việt, nơi tu hành giảng đạo của người xưa và điểm du lịch, tham quan danh thắng của người hiện đại.


Một điều quan trọng khác nữa, chính tác phẩm của ba vị sư tổ cũng trở thành những giá trị tinh thần dân tộc, vừa là di sản tư tưởng nhân văn của ông cha vừa là những áng thơ còn mãi với thời gian. Nhiều chuyên ngành khoa học xã hội như lịch sử tư tưởng, triết học, văn học, văn hóa học, tôn giáo, ngôn ngữ… đều có thể tìm đến khai thác các văn bản này.


Ðiều quan trọng hơn, sự ra đời Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã góp phần cổ vũ tinh thần người dân nước Việt về khả năng phát triển những giá trị văn hóa bản địa, nội sinh trong lòng dân tộc. Ðây cũng chính là sự đáp ứng nhu cầu đời sống tâm linh, tín ngưỡng của mỗi cộng đồng người ở từng thời đại, giai đoạn lịch sử cụ thể.


Có thể nói sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã tạo nên trường lực hấp dẫn mạnh mẽ, tạo đà thúc đẩy sự ra đời hàng trăm ngôi chùa lớn, nhiều tầng lớp tăng chúng cùng quy hướng theo một dòng tu hành in đậm sắc thái Phật giáo dân tộc. Bản thân hình tượng ba vị sư tổ cũng được tôn thờ, nghệ thuật hóa thành tranh, tượng và nhân vật trong văn học viết cũng như truyền thuyết dân gian.


Những bài thuyết pháp, giảng đạo của các Sư đồng thời cũng là những bài học đạo đức khuyên răn con người hướng thiện đã đến với muôn dân, đã được khắc in và truyền lại cho hậu thế.


Mặc dù đến hết triều Trần, Phật giáo không còn giữ được địa vị như giai đoạn trước, song tinh thần Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã kịp chuyển hóa, thấm sâu trong đời sống tinh thần dân chúng và trở thành những giá trị văn hóa bền vững trước thời gian.


Tăng sinh khoá 6 Trường Trung cấp Phật Học Hà Nội – Chùa Bà Đá Thích Diệu Tuyết đã bày tỏ lòng thành kính của mình trước Tam Bảo – Chùa Hoa Yên: Đây là lần đầu tiên Con đến Yên Tử, thật là một vùng nước non hùng vĩ, sơn thuỷ hữu tình. Con cũng thật khâm phục và ngưỡng mộ Sư Tổ Trúc Lâm Đại Đầu Đà đã từ bỏ mọi quyền lực vinh hoa và phú quý để lên chốn non thiêng Yên Tử này tu tập. Khai sinh ra Thiền Phái Trúc Lâm lơn này. Tấm gương sáng của Sư tổ Trúc Lâm Đại Đầu Đà cho con thấy mình cần phải cố gắng tu tập nhiều hơn nữa.


Cuộc hành trình của Tăng – Ni sinh khoá 5 và 6 rât hoan hỉ được nghe Thượng Toạ Thích Tuệ Phúc – Phó Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm giảng một thời Pháp thoại về nguồn gốc, sự ra đời hình thành và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.


Đây là một nhân duyên lớn của các Tăng – Ni sinh khoá 5, 6 khi được nghe Thượng toạ giảng pháp, qua buổi giảng pháp này, các Tăng – Ni sinh nhà trường lại có thêm nhiều kiến thức và sự hiểu biết của mình về Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được áp dụng trong suốt quá trình tu tập và rèn luyện của mình.


Chia tay với Non Thiêng Yên Tử, Thầy trò Tăng Ni sinh trường Trung cấp Phật học Hà Nội cơ sở 2 Chùa Bà Đá lại quay trở về với công việc tu tập của mình. Hẹn một mùa xuân sau.