Trang chủ Văn hóa Du lịch Tây Thiên – dấu xưa còn lại chút này!

Tây Thiên – dấu xưa còn lại chút này!

72

Để KDT này được coi trọng trong tư cách là một KDT lịch sử văn hoá nên chăng cần trở lại những gì bị bụi thời gian phủ lấp và bị chính con người hiện đại hủy hoại cuối cùng vào năm 1983.

Trong câu chuyện cuối năm này chúng tôi chỉ xin cung cấp cho bạn đọc một văn bản về người anh hùng Lăng Thị Tiêu – Người được phong là Sơn Trụ Quốc mẫu Đại Vương mà lâu nay vẫn quen gọi là Quốc mẫu Tây Thiên.

Văn bản có tên gọi là Cổ Tích Thư:

Xã Đông Lộ, tổng Khai ngoại, huyện Tam Dương chép lại tích ở chùa Tây Thiên ngày 8/6 năm Đinh Tỵ Khải Định thứ 2. Xưa truyền Đại Vương ngọc phả Quốc Mẫu núi Tam Đảo như sau:

"Có một vị hào trưởng ở trang Đông Lộ, động Tam dương, phủ Đoan Hùng đầu đạo Sơn Tây, nước Văn Lang, hiệu Việt Tích Hùng Đồ trị quốc Hùng Vương. Vị này có họ là Lăng tên Vỹ gần 40 tuổi, vợ cả họ Đào tên Liễu đã ngoại 40. Ông thì khí tượng khôi kỳ, anh hùng, khoáng đạt cũng là tông phái của Hùng Vương. Ông bà chưa thấy điềm sinh con trai.

Một ngày ông bà lên núi Tam Đảo đi về phía nam tới chùa Tây Thiên dâng hương cầu tự khi đó mặt trời đã xế, nhân nằm lại để cầu mộng ứng. Trong giấc ngủ Đào thị bàng hoàng thấy mây ngũ sắc bay lượn trong chùa, hương đưa ngào ngạt. Trong giải mây vàng có bảy, tám nàng tiên áo choàng sặc sỡ, người hát, người múa, đàn nhạc vang lừng…

Đào Thị sực tỉnh giấc mơ, biết ứng điềm lành. Từ đó tâm thần chuyển động mang thai đến ngày 10 tháng 5 Giáp Thân sinh hạ được một bé gái. Sinh ra khi đó trời ráng đỏ huy hoàng, hào quang sán lạn, gió hương ngào ngạt, khí lành bao bọc cả chín phương trời.

Đầy tháng đứa trẻ dung mạo kỳ tú, đoan trang, nguyệt thẹn, hoa nhường. Lên một tuổi biết nói, 6 tuổi thông thạo âm luật, mệnh danh là Tiêu còn gọi là Xích Cảm.

Ông bà hết lòng yêu dấu, năm 11 tuổi đã thạo mọi nghề của nữ giới, lại thích võ nghệ, binh thư, thao lược. Trong lòng ôm ấp cái mộng tài kiêm văn võ thực là anh hùng trong nữ giới!

Đền thờ Quốc Mẫu Lăng Thị Tiêu


Đến năm 20 tuổi khí lực dũng mãnh, tài lược hơn người. Hào kiệt trong động và các huyện trong vùng đều vui mừng và thần phục. Lại có phép thần thông xuất quỷ nhập thần, biến hóa khôn lường. Khi có quân Thục xâm lấn, trong nước náo động, vua Hùng kêu gọi hào kiệt trong nước chống xâm lăng để giữ nguyên bờ cõi.

Khi đó cô gái Lăng Thị Tiêu với tên Hội Nương chiêu mộ được nhiều tráng đinh ở phía Đông 50 người, Sơn Đình 100 người, Khai Nội 150 người, Khai Ngoại 150 người cùng trai tráng các huyện cả thảy 3 ngàn quan sỹ tới kinh là đất Việt Trì thuộc Phong Châu ra mắt vua Hùng. Nhà vua rất đỗi vui mừng giao tinh binh 10 vạn, ngựa mạnh 3 ngàn, thuyền chiến 5 ngàn cho Hội Nương thống suất thủy bộ, quân mã.

Ngày 29/2 cất quân, khi ấy Hội Nương phụng mệnh từ kinh đô chia quân tiến làm 3 ngả: Một ngả 3 vạn tinh binh, 1 ngàn ngựa chiến từ Phong Châu đi đến Chu Giang Hưng Hóa để giao chiến với quân Thục.

Một ngả 3 vạn hùng binh, một ngàn ngựa mạnh, 1 ngàn danh tướng từ sông Đà thẳng hướng tới sông mã giao chiến còn một ngả nữa 4 vạn tinh binh, cùng ngựa mạnh tướng tài theo đường núi thẳng tới châu Tuần giáo đánh Thục. Binh mã 3 ngả cùng hội chiến ở đất Quỳnh Nhai giết chết hơn vạn quân Thục khiến giặc đại bại phải lui về chốn cũ không dám xâm lấn nữa.

Hội Nương hồi binh nhập triều, mở tiệc mừng công, thăng chức cho tướng sỹ Tây Chinh. Ngày 28 tháng 2 được tôn làm Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu Đại Vương. Hội Nương sau khi thắng trận lại đem binh trở về động cũ giết trâu, mổ bò mở tiệc bái tạ phụ lão và hào kiệt các huyện quanh vùng. Khi đó cha mẹ ngoài 80 tuổi vô bệnh tật.

Ngày 12 tháng giêng Hội Nương sửa lễ mừng thọ cha mẹ, truyền lệnh trong tổng: Xã Khai Nội lập làm Tả Cung, xã Khai Đình lập làm hữu cung, xã Đông Trang lập làm hạ cung. Nơi chùa Tây Thiên bỗng thấy mây ngũ sắc chuyển vần từ trên trời xuống. Một ngày bỗng trong mây xuất hiện chiếu chỉ của thượng đế đòi công chúa về trời. Hội Nương liền tắm gội cùng thiên sứ thăng thiên, di vật còn lưu lại ở chùa Tây Thiên. Ngày người hóa vào ngày 15 tháng 2 cả nhân gian đều biết.

Trong xã có người đem việc kính tâu với Vua Hùng. Đáp lại người có công triều đình đã sai quan tới tế và gia tặng: Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu Đại Vương, đệ nhất thượng đẳng phúc thần bốn mùa cúng lễ, muôn thuở ghi lòng.

Về sau các nơi lập miếu ghi võ công lưu truyền từ Đinh, Lê, Lý,Trần … Phàm các triều khai sáng đều làm lễ tế thiên hạ thái bình và truy phong các thần trong nước vẫn có sắc phong cho bà như các triều trước."

Nếu các nội dung ghi trong Cổ tích thư mà chúng tôi nhắc đến ở trên là đúng thì 13 đạo sắc phong còn sót lại đến năm 1983 chỉ là một lượng rất nhỏ trong số các đạo sắc phong có từ thời Hùng Vương đến Khải Định triều Nguyễn.