Trang chủ Thời đại Giáo dục Tính nhân bản qua câu kinh: ''Tự mình thắp đuốc lên mà...

Tính nhân bản qua câu kinh: ''Tự mình thắp đuốc lên mà đi''

765

Theo độc thần giáo cũng gọi là nhứt thần giáo như đạo: Do Thái, Thiên Chúa, Tin Lành, v.v…và một số nhà tư tưởng quan niệm rằng: Thượng đế là Đấng sáng tạo ra vũ trụ; là Bậc toàn năng, toàn trí và toàn quyền đối với con người cũng như muôn loài vạn vật. Thượng đế còn gọi là Thiên Chúa, Chí Tôn, Chúa Trời, Trời,… Ngài là Đấng cầm cân nẩy mực, trọn quyền ban phước giáng họa cho bất cứ ai trong trần thế.

Điều này được thể hiện rõ nét qua đoạn kinh thánh Cựu Ước sau đây:

1.  Sáng Thế Ký [(Gen.1:1-31, đọc là chương 1, đoạn từ 1-31)] viết:

 Ngày 1, Chúa tạo dựng nên trời đất, ánh sáng và bóng tối.

Ngày 2, dựng vòm trời bằng đồng thau.

Ngày 3, dựng cây cỏ.

Ngày 4, dựng các ngôi sao.

Ngày 5, dựng sinh vật.

Ngày 6, dựng thủy tổ loài người (Adam và Eva).

Ngày 7, nghỉ.

                        (Trích từ http://tongiaovadantoc.com)


 

Hoặc là:

Quyền họa phúc Trời tranh mất cả!

Chút tiện nghi chẳng trả phần ai!

(Nguyễn Gia Thiều – Cung oán ngâm khúc)

Quan niệm trên, có nghĩa là mọi khổ vui họa phúc, trí ngu giàu nghèo, sang hèn được mất… trong đời người là do “tha nhân” định đoạt, chứ không phải “tự mình” quyết định.

Đối lập với các chủ trương trên, trong kinh Du hành và kinh Chuyển luân Thánh vương. Đức Phật đã nhiều lần dạy rằng: “Các ngươi hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”

Một lời dạy đơn giản, nhưng lại là một danh ngôn bất hủ, mang tính nhân bản vô cùng sâu sắc! Đứng trên bình diện triết lý nhân sinh, chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa và xác định giá trị nhân bản của nó trong đời sống chúng ta và nhân loại qua sự trình bày sau đây:

Qua câu di huấn: “Các ngươi hã tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Đã gợi lên 2 vấn đề lớn.


I – TỰ MÌNH: tự bản thân chứ không do người khác. Với chủ trưởng Nhân bản, lấy con người làm gốc, làm trung tâm để phục vụ, thăng hoa, hướng thượng và tiến đến chân thiện mỹ. Đức Phật quan niệm: con người và tất cả chúng sanh đều có chung một bản thể bình đẳng thanh tịnh, có đủ khả năng chứng đạo thành Phật – Phật là danh hiệu chung cho tất cả chúng sanh có công phu tu hành và giải thoát giác ngộ, chứng quả Niết bàn. Tuy nhiên, con người phải tự lực tự cường và tự đi bằng đôi chân của chính mình để đạt đến, chứ không ai đi thế và cũng không do ai ban rải hạnh phúc tối thượng đó. Như Đức Phật đã minh thị: “Các ngươi hãy tự nỗ lực để tiến đến giải thoát giác ngộ. Đức Như Lai chỉ là người dẫn đường” (Đại cương Kinh Trường A Hàm, dịch giả Hòa thượng Thích Thiện Nhơn, xb 1993, tr.94).

Thật vậy, Đức Phật chỉ là vị Đạo sư – Vị Đạo sư khả kính, khả ái của chúng ta – Ngài rất yêu quý chúng ta và mong muốn tất cả chúng ta chứng ngộ như Ngài, nên Ngài không ngần ngại nói lên sự thật: “Ta cũng đã tìm khắp mọi nơi, để tìm người y cứ, nhưng không ai đáng để ta y cứ. Do đó, ta phải tự y cứ chính ta và nỗ lực tu tập giải thoát, chứng quả Niết Bàn, thành tựu Vô sư trí, Tự nhiên trí.v.v. (Sđd)

Ngoài ra, khả năng “tự mình” cũng được Tổ Linh Hưu sách tấn: “Kim sanh, tiện tu quyết đoán, tưởng liệu bất do biệt nhơn!”

Tạm dịch: đời nay phải tự quyết đoán, xét ra không do ai khác! (Qui sơn cảnh sách)

Riêng đối với Thiền sư Việt Nam, bằng hai câu thơ ngôn chí mang tính đặc trưng của Thiền tông, Quảng Nghiêm Thiền Sư phát biểu:

Nam nhi tự hữu xung thiên chí

Hưu hướng Như Lai hành xứ hành

Nghĩa là:

Làm trai có chí xông trời thẩm

Chớ dẫm Như Lai vết đã qua (*)

(Thiền sư VN – HT Thích Thanh Từ, xb. THPG/TPHCM, 1995, tr.189)

Tại sao Đức Phật đặt vấn đề “tự mình” mà không phải là “tha nhân” để giành lấy vai trò “kể cả”, để nhân danh Đấng Cứu thế hay Thiên sứ đầy đủ quyền năng tối thượng, tạo cho mình muôn vòng hào quang rực rỡ như các vị giáo chủ khác?

Điều này, chúng ta có thể giải thích qua những lý do sau đây:

1. Vì tôn trọng chân lý, đã là chân lý thì bao giờ và ở đâu nó vẫn là chân lý; là sự thật khách quan và vĩnh cửu. Thực tế đã cho chúng ta thấy: muốn no thì phải tự ăn, muốn khỏe thì phải tự ngủ, chứ không có việc người này ăn mà kẻ khác no, người này ngủ mà kẻ kia khỏe.

2. Vì tinh thần bình đẳng, chúng sanh tuy khác nhau về hình hài thể xác, nhưng bản thể vẫn đồng nhất bất biến, và tất cả chúng sanh đều có khả năng giải thoát giác ngộ như nhau; ở thánh không thêm, ở phàm không bớt. Dù là trí thức hay bình dân nếu có tu là có chứng, tùy sự dụng công, chứ không tùy thuộc giai cấp. Thế nên Đức Phật đã khai thị:

Nhữ thị Phật đương thành

Ngã thị Phật dĩ thành

Nghĩa là:

Ngươi là Phật sẽ thành

Ta là Phật đã thành

(Kinh Phạm Võng – dg HT Thích Hành Trụ, NXB Sen Vàng. 1958, tr.26).


3. Vì tâm từ bi vô lượng. Đức Phật quán thấy tất cả chúng sanh đều là quyến thuộc trong vô lượng kiếp đang đắm chìm trong vòng luân hồi đau khổ, cần phải tế độ. Như hai câu kệ sau:

Phật tại thế gian thường cứu khổ.

Phật tâm vô xứ bất từ bi, .v.v.

Qua phần giải thích trên, chúng ta đã rõ ý nghĩa, và lý do tại sao Đức Phật đề cập “tự mình” mà không nói đến “tha nhân” rồi. Kế tiếp chúng ta sẽ tìm hiểu vấn đề: “Thắp đuốc lên mà đi”.

II – THẮP ĐUỐC LÊN MÀ ĐI:

THẮP, theo nghĩa đen là mồi, đốt,… thuộc về hành động. Ý nói về sự nỗ lực tu tập.

ĐUỐC là vật thể thắp sáng, tiêu biểu cho Chánh pháp. Chánh pháp được đề cập ở kinh này là tứ niệm xứ.

ĐI có nghĩa là tiến bước. Nó bao hàm ý nghĩa đang tiến đến mục tiêu đã định. Mục tiêu ở đây chính là Tứ quả Thanh văn; là Vô thượng Bồ đề vậy.

“Tự mình thắp đuốc lên mà đi” tức là tự mình nỗ lực hành trì Chánh pháp nói chung. Song, theo kinh Du hành và kinh Chuyển luân Thánh vương, Chánh pháp được Đức Phật đề cập là tứ niệm xứ.

 Tại sao Đức Phật không nói đến pháp khác?

Nguyên vì Đức Phật muốn trừ bốn thứ chấp điên đảo mê lầm căn bản của chúng sanh:

Thân bất tịnh lại cho là tịnh

Thọ là khổ lại cho là lạc

Tâm vô thường lại cho là thường

Pháp vô ngã lại cho là ngã

Do quán chiếu tứ niệm xứ, thấu rõ được chân lý của các pháp, thành tựu bốn pháp không điên đảo của Nhị thừa, loại trừ bốn pháp điên đảo của chúng sanh. Dù không để cập Tam vô lậu học, nhưng thành tựu tứ niệm xứ cũng có nghĩa là thành tựu Tam vô lậu học và các pháp khác.

Tóm lại, qua phần trình bày nêu trên, chúng ta nhận thấy giáp pháp của Đức Phật tuy có vô lương, nhưng đều được xây dựng trên cơ sở nhân bản mà mọi người trong xã hội ở bất cứ địa phượng nào, thời điểm nào đều có thể đạt đến cứu cánh giải thoái giác ngộ bằng chính khả năng của mình. Chứ không do ai khác. Nếu mình tinh cần nỗ lực, tỉnh giác và nhứt tâm tu tập. Điểu này đã được Đức Phật tái khẳng định:

Tự mình nương tựa mình

Tựa điểm nào hơn nữa

Nhờ khéo điều phục mình

Được điểm tựa khó được (Pháp cú 160)


Nhận chân được ý nghĩa chủ trương trên, khi nghiên cứu về Phật giáo – Erich Fromm, một nhà Tâm phân học và Tôn giáo nổi tiếng đã nhận xét như sau:

“Một trong những thí dụ rõ rành nhất về tôn giáo nhân bản chính là Phật giáo Nguyên thủy. Đức Phật là một vị thầy lỗi lạc, Ngài là “Con người đã thức tỉnh”, đã trực nhận chân lý về nhân sinh. Ngài không thuyết giáo nhân danh, một quyền năng siêu nhiên mà nhanh danh lý trí. Ngài kêu gọi mọi người hãy thấy rõ chân lý mà Ngài chỉ là người đầu tiên tìm thấy”. (Erich Fromm – Tâm phân học và Tôn giáo – dg Trí Hải, NXB Đại học Vạn Hạnh, 1968, tr.71)

_____________

(*) Điều này có ý nói lên tinh thần độc lập, tự chủ, tự tại của con người trong việc phát minh và lựa chọn phương pháp tu tập thích hợp với căn cơ và hoàn cảnh của riêng mình, chứ không phải Quảng Nghiêm Thiền sư phủ nhận thành quả bất hủ của Đức Phật hay bất kính Đức Phật.