Trang chủ PGVN Nhân vật Ni trưởng Thích Tắc Luật viên tịch

Ni trưởng Thích Tắc Luật viên tịch

Khi thân mẫu là bà Huỳnh Thị Hơn tợ thai được ba tháng cũng là lúc thân phụ là ông Nguyễn Văn Hên cùng hai con lớn một trai, một gái quyết chí lìa tục xuất gia.

Từ đó, bà Huỳnh Thị Hơn cũng phát tâm theo đạo và phát nguyện ăn chay trường cho đến khi Ni trưởng được sinh ra vào ngày 24 tháng 3 năm Đinh Mão (1926). Do ăn chay từ khi còn trong bụng mẹ nên thân mẫu của Ni trưởng biết con mình có túc căn bèn cho con làm con Phật theo cha ở tại chùa Linh Sơn.

Tuổi thơ của Ni trưởng đã trải qua cuộc sống khó khăn từ nơi này đến nơi khác. Ni trưởng đã từng ở chúng khắp các tự viện lớn nhỏ ở Sài Gòn và Long An, và cũng từng làm trụ trì nhiều tự viện.

Từ năm lên ba tuổi, Ni trưởng đã rời khỏi vòng tay của mẹ đến ở chùa Pháp Môn tụng kinh, niệm chú.

Khi Ni trưởng lên bốn tuổi thì thân phụ lại gửi Ni trưởng ở chùa Pháp An (Tân Hòa Đông) mà ăn ở tu học.  Đứa trẻ lên bốn đứng giữa lộ rướn người nhìn theo bóng cha khuất dần mà quyết lòng không bi ai, khóc lóc… Lúc bấy giờ, thân phụ của người đã làm trụ trì chùa cổ Linh Sơn – tức Hòa thượng húy Tánh Lịnh thượng Đạt hạ Pháp.

Lên tám, Ni trưởng lạy Ngài Liễu Thoàn thế phát xuất gia ở chùa Linh Sơn. Nhờ tính tình siêng năng, cần mẫn mà mới tám tuổi Ni trưởng đã thuộc làu hai thời công phu. Thời gian rảnh, Người tự học chữ Quốc ngữ và theo chúng tăng học chữ Nho cũng không ít. Ngày đêm tụng kinh, học giới luật không hề mệt mỏi.

Chỉ mới lên 13 tuổi, Ni trưởng đã thuộc bốn cuốn Luật Sa di ni và cũng đã một mình đi đến chùa Pháp Võ để theo chúng học sự.

Đến 18 tuổi, Ni trưởng lại tiếp tục đi dến chùa Pháp Tạng ở và tu học. Nơi đây, Ni trưởng chúng kiến được sự tu chứng của Hòa Thượng chú ruột của mình là Hòa thượng húy Tánh Ngộ thượng Đạt hạ Tôn: Vì khi Hòa thượng viên tịch, thần trí minh mẫn, dạy đại chúng nổi chuông trống bát nhã tiễn Ngài về Tây nên Ni trưởng càng tinh tấn tu học,và nghiêm giữ giới luật.

Năm 20 tuổi, Ni trưởng thọ Sa di ni ở Đại giới đàn chùa Tôn Thạnh do Hòa Thượng Liễu Thoàn làm Đàn đầu.
Sau 5 năm vâng giữ giới luật, tinh nghiêm chuyên cần học hỏi, năm 25 tuổi, Ni trưởng được đăng đàn thọ Thức xoa ma na ni giới cũng tại giới Đàn chùa Tôn Thạnh.

Năm 1958, Ni trưởng lãnh thọ Cụ túc giới tại Giới đàn Pháp Thạnh do Hòa thượng thượng Đạt hạ Trung làm Đàn đầu. Người chính thức trở thành vị Á Tăng, được đứng hàng Tăng Bảo – Thầy của trời, người. Từ đó trở đi, Ni trưởng càng nghiêm tập giới luật, không rời y bát, không thường ngủ nghỉ, chỉ nhớ tưởng chư Phật. Lúc đó, Ni trưởng được bá tánh, Phật tử thỉnh làm trụ trì Pháp Bửu, làng Long Hựu.

Năm 1961, Ni trưởng lại ra đi đến xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh lập ngôi Già Lam hiệu Pháp Viên để làm nơi tu học và hoằng dương chánh pháp.

Ngôi chùa Pháp Viên được phép xây dưng và lập ra năm 1963, lúc đó chỉ lợp lá, vách ván, bốn bề sông nước bao quanh, dân cư thưa thớt. Chánh điện lúc bấy giờ cũng được chia làm hai, một để thờ Phật, một để ở. Cảnh sống lúc đó thiếu thốn, khốn khổ vô cùng.

Thế nhưng, nhờ oai thần chư Phật, chư Bồ Tát và cũng nhờ bản tánh can cường vốn có, Ni trưởng đã cùng đồ chúng vượt qua tất cả. Đó cũng là sự rèn luyện sức chịu đựng gian khổ cho những ai muốn hành Bồ tát đạo.

Năm 1985, Ni trưởng lại một lần nữa trùng tu chùa Pháp Viên thành một tự viện. Tuy không to lớn nhưng cũng có nơi thờ Phật, có Tổ đường, có nhà giảng…Phía trên cửa bước vào chánh điện có khắc bốn chữ lớn bằng Hán Văn “Chấn Hưng Phật Giáo” mà Ni trưởng thường ngồi để nhìn và khuyên Phật tử nên theo bốn chữ đó mà gắng công tu học để không phụ tấm lòng từ bi của Chư Phật và chư Tổ sư.

Cuộc đời Ni trưởng viện chủ chùa Pháp Viên là một cuộc đời đức hạnh cần mẫn, khiêm nhường và rất từ bi. Người đã cống hiến cho sự nghiệp hoằng dương Phật Pháp nhiều công lao đáng kể.

Người thường khuyên đệ tử tinh tấn hành đạo, học hỏi theo thứ lớp có căn cơ, không khinh chê người khác. Đặc biệt nhất, Ni trưởng hễ thấy ai theo học thơ văn thì người thống trách “ để tâm lặng mà tu đã rất khó, còn học tập thơ văn tình tứ bi lụy thì chỉ làm sa ngã mất đi tâm trí tuệ chớ không có ích gì”. Còn hễ Phật tử nào trình độ kém cỏi Người chỉ khuyên niệm Phật, tuyệt đối không cho xem kinh Đại thừa, Người dạy rằng “đọc kinh Đại thừa chỉ để tăng cho các người tánh cống cao ngã mạn mà thôi”.

Quả thật Ni trưởng là tấm gương sáng trong việc trì giới, hạnh tu khiêm nhường để hàng đệ tử noi theo. Tuy là thân nữ nhưng ý chí tu hành không khác gì bậc trượng phu. Người lập chùa Pháp Viên cúng dường cho chư Tăng cư ngụ và tu học. Người đã chính mình vừa nuôi dưỡng, vừa sách tấn vị Thượng tọa trụ trì (Thích An Hòa) từ khi Ngài mới vào chùa tu học cho đến nay. Tuyệt đối Ni trưởng không muốn có nhiều đồ chúng ni để phụng sự cho mình.
Đến năm 1999, do tuổi cao sức yếu, Ni trưởng đã giao lại chùa pháp Viên cho Thượng tọa thượng An hạ Hòa làm trụ trì. Kể từ đó, Ni trưởng chủ yếu dành thời giờ để niệm Phật.

Bên cạnh đó, vì Thầy trụ trì quá bận rộn trong công tác Phật sự tại địa phương nên Ni trưởng buộc phải lo nấu cơm hằng ngày. Hạnh nguyện đào tạo tăng tài của Ni trưởng thật là to lớn! Sự thành tựu về oai đức của vị Thượng tọa trụ trì chính là quà tặng trân quý mà Ni trưởng dành cho chúng sanh.

Những năm cuối đời, mặc dầu thân tứ đại suy yếu, nhưng tinh thần Ni trưởng luôn minh mẫn và sáng suốt. Người cho xây cất hoàn chỉnh tăng xá, tráng nền toàn bộ khuôn viên chùa. Và cuối cùng là ngôi Bảo tháp làm nơi an dưỡng sau cùng cũng hoàn tất. Tuy nhỏ bé, đơn sơ ở phía sau chùa nhưng đầy uy nghiêm; cũng giống như bản tính Ni trưởng lúc nào cũng khiêm nhường nhưng khiến người phải phát lòng tôn kính.    

Hai ngày trước khi viên tịch, Ni trưởng tự tay mình ngồi cao sạch tóc, tắm rửa sạch sẽ, dặn dò đại chúng những việc trang trí đơn giản, không được để kim quan quá ba ngày vì Ngài không muốn bá tánh lạy nhục thân Ni trưởng lâu.
Trước khi viên tịch, 10 giờ sáng ngày 26 tháng 4 năm Canh Dần, Ni trưởng yếu dần…nhưng Người vẫn tỉnh táo giơ 4 ngón tay ra hiệu cho đệ tử thắp bốn ngọn đèn chung quanh kim quan đã được chuẩn bị sẵn. 

Đến khoảng 13 giờ, Người ra hiệu cho Phật tử đỡ mình ngồi dậy bằng cách xếp chân lại. Nhưng họ không hiểu ý của Người rồi lại sợ Người bị đau nên kéo thẳng chân Người ra… Than ôi, phàm phu tâm tánh lăng xăng, không nhớ ý nguyện ngồi kiết già thị tịch của Ni trưởng, lại không nhớ sự tinh tấn tu khổ hạnh của Người từ nhỏ cho đến khi viên tịch. Cho đến khi Thượng tọa Trụ trì dẫn Đại đức Thích Nhật Tính vào trợ niệm, nhắc lại ý nguyện của Người thì Ni trưởng khẽ gật đầu đồng ý…

Cuối cùng, Ni trưởng được đỡ ngồi kiết già vững chãi, gương mặt Ngài ngẩng cao, mắt nhìn thẳng tôn tượng Phật A di đà. Đúng 14 giờ, thuận thế vô thường, Ni trưởng an nhiên thâu thần thị tịch trong tiếng hộ niệm Nam mô A Di đà Phật của đại chúng chùa Pháp Viên. Người ngồi như đang thiền tọa.

Lúc đó, ba hồi chuông trống Bát nhã được cử lên để cung tiễn Ni trưởng cao đăng Phật quốc. Khung cảnh trang nghiêm và xúc động chưa từng có.

Ni trưởng trụ thế 84 tuổi, hạ lạp 64. Ngài đã về cõi Phật trong niềm tiếc thương vô hạn của môn đồ, Phật tử.  Nhìn lại cả đời Ngài, xuất thân tuy nghèo khổ, nhưng với bản tánh cương trực, chịu đựng và giản dị, Ngài chân thật ẩn tu trì giới, thực hành đủ thứ khổ hạnh gian khó. Bởi nhân địa tu hành chân thật như vậy, nên kết quả cảm ứng bất tư nghì.

Đó là sự viên tịch vô cùng tự do tự tại của Ngài – một minh chứng hùng hồn nhất về sự diệu kỳ của Phật pháp, cũng như về khả năng thành tựu giải thoát, đạt Đạo của những bậc chân thật tu hành, giữ giới.

Thầm nguyện Ni trưởng sẽ không xả bỏ đại nguyện, tiếp tục chèo thuyền từ bi trở lại cõi này để đưa bao nhiêu lớp người lên bến bờ giải thoát.