Trang chủ Diễn đàn Chấn hưng Phật giáo Để Phật giáo hưng thịnh: Yếu tố không gian

Để Phật giáo hưng thịnh: Yếu tố không gian

110

Phần 2: Yếu tố không gian

Phần trên chúng ta đã thảo luận về sự linh hoạt ứng dụng thời gian trong công tác tổ chức tu tập để phù hợp với số đông. Tiếp đến thảo luận lĩnh vực thứ 2, làm sao khai thác ứng dụng hết không gian của tất cả cơ sở tự viện.

Trước hết chúng ta bàn luận giá trị tồn tại của ngôi tự viện trong lòng mọi người, trong lòng dân tộc. Tự viện không bị ảnh hưởng bởi một cá nhân hay một tập thể hay một thể chế chính trị nào đó mà nó được truyền thừa trên cơ sở đạo đức nhất định, được xã hội công nhận.

Có nghĩa là trong đất nước của chúng ta, khi một ngôi chùa được xây dựng tất yếu ngôi chùa đó trở thành “tài sản chung tồn tại vĩnh viễn (thập phương thường trụ)”; cho dù xảy ra chiến tranh loạn lạc hoặc bị thời gian làm hư hại thì ngôi tự viện đó cũng không được sử dụng vào mục đích riêng của bất kỳ tổ chức chính trị. Giả sử có thì cũng chỉ mang tính chất tạm thời, sau đó phải tiến hành hoàn trả đúng như mục đích ban đầu của tự viện.

Và một tính chất đặc thù của Phật giáo là ngôi tự viện này được kế thừa bởi người có đạo đức (giữ giới luật), tâm thức bình hòa (thiền định), có nhận thức siêu việt có khả năng tự mình và hướng dẫn người khác tu tập (trí tuệ), không phải trao truyền bằng cách căn cứ vào mối quan hệ huyết thống cha truyền con nối, hay chuyển nhượng mua bán, mà tự viện được tồn tại kế thừa trên tinh thần căn bản trên.

Theo thời gian tự viện trở thành nơi chứng kiến nhiều đổi thay của đất nước, theo từng cột mốc lịch sử của dân tộc.

Tất cả các ngôi chùa trên đất nước được hình thành vô cùng trân quý trong nhân duyên thù thắng như vậy, những con người hiện tại đang gánh vác trên vai trọng trách điều hành, đang ở nhà của Như Lai, tuyên dạy giáo pháp và thực hành theo Như Lai, thế nên nơi đó sẽ tràn đầy đạo vị và là nơi ký thác tâm hồn của dân tộc.

Như vậy, làm thế nào để phát huy hết tất cả các giá trị tồn tại của ngôi chùa, dưới đây chúng ta cùng nhau thảo luận một số ý kiến:

Xây dựng theo lối kiến trúc phù hợp với văn hóa địa phương nhất, phù hợp với quan niệm thẩm mỹ của vùng miền, thể hiện nét đặc thù riêng trong tâm hồn của Phật tử, không quá hào nhoáng xa hoa, không nên lãng phí tài sản của xã hội, khi xây dựng phải có nơi lễ bái thờ phụng, thư viện đọc sách, giảng đường học tập, thiền đường và niệm Phật đường, tổ đường để cung phụng Lịch đại Tổ sư và nơi ký tự ký linh của mười phương Phật tử.

Trong lịch sử, cải cách quan trọng nhất của ngài Bách Trượng là: “một ngày không làm một ngày không ăn (nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực)”, nhưng sự cải cách đó còn một điều quan trọng trong kiến trúc xây dựng Tòng lâm.

Ngài chủ trương không thành lập chính điện, chỉ có thiền đường và giảng đường, vì đương thời các tự viện xây dựng chính điện quá phô trương, thiếu yếu tố thực dụng, lại tách rời xã hội bình dân, chỉ phục vụ nhu cầu của giai cấp quý tộc, làm ảnh hưởng đến nhân dân, tạo lòng tham dẫn đến trộm cắp và chiếm đoạt gây mất an ninh trật tự, xáo trộn xã hội.

Tổng thể kiến trúc sao cho khai thác hết tính chất giáo dục tuyên truyền, ví dụ như nơi nào cần có câu chữ sách tỉnh thế nhân thì nên viết các lời Kinh kệ hay Pháp cú, nơi nào cần ảnh hiện hình tượng của đức Phật, Bồ tát và Tổ sư thì nên xây dựng, kết hợp gắn các tấm biển nhỏ giới thiệu sơ lược về công hạnh của quý Ngài, để cho mọi người trong thời gian ngắn nhất có đủ nhân duyên tìm hiểu học hỏi thêm, dần huân tập trong tiềm thức của mọi người.

Còn khuôn viên tự viện nên bố trí theo biểu tượng vườn Lộc uyển chuyển pháp luân, hoặc thế giới quan của Phật giáo về ba ngàn đại thiên thế giới, hoặc hồ liên trì (sen) và 16 loại hành quán trong “Kinh Quán Vô Lượng Thọ” v.v… để khi khách thập phương đi kinh hành, hoặc ngồi thiền, thì có đối tượng trợ duyên quán chiếu, dễ đạt đến cảnh giới thiền định, làm cho cá nhân hòa vào vũ trụ v.v…

Chúng ta phải khai thác vận dụng hết mức để phát huy tiềm năng trong cơ sở tự viện, không nên để lãng phí một góc độ nào, mà hãy thổi hồn vào từng nhành cây cộng cỏ, viên đá, mái hiên để chúng sinh hữu tình và chúng sinh vô tình đều có công năng trợ thành chính giác cho hành giả.

Vậy làm sao phát huy hết tính chất giáo dục tu tập trong mỗi tự viện, để cho sự tồn tại của nó được miên viễn trong tâm hồn của mọi người, điều đó phụ thuộc vào tầm nhìn cũng như cách xây dựng, bày trí của người lãnh đạo để ngôi tự viện kia trở thành chốn thiêng liêng, là biểu tượng của quê hương mà mỗi người con khi xa quê họ đều nhớ về, là nơi gửi gắm tâm hồn giữa cuộc sống nhiều bộn bề lo toan, là chốn đi về của mọi người.

Nên chăng chúng ta phải có kế hoạch dài hơn, đào tạo một số nhân sự chuyên ngành kiến trúc tự viện và nghệ thuật tạc tượng v.v… môn học này được giảng dạy trong các trường Phật học để trên cơ bản mọi Tăng ni đều đọc được cái ý ẩn tàng trong của mỗi nét bút và biểu tượng của từng tác phẩm trong Phật giáo, để khi tiếp nhận trụ trì ngôi tự viện, hoặc xây dựng mới, cũng có ý tưởng tư vấn cho kiến trúc sư hoàn thiện việc xây dựng đúng cách phù hợp với văn hóa Phật giáo nhất.

Tuy là “vật chất hữu hạn bởi hình thể phương vị, nhưng nó là nơi biểu hiện cho tinh thần vô hạn với không gian thời gian”.

Ai đi xa cũng nhớ quê nhà, ai rời làng đều nghĩ mái chùa ta. Chúng ta phải làm thế nào để tất cả mọi người dân đi đâu cũng tự hào về ngôi tự viện hiện diện trong lòng mình, hãnh diện khi nhắc tới tự viện với những người xung quanh, khi đó chúng ta không còn bị lung lay bởi các đạo khác mà ngược lại họ sẽ tự cải đổi để được cái cảm nhận thiêng liêng theo mình.