Hội nghị Khoa học, Thiền định và Chánh niệm – sự kiện được mong đợi từ lâu tại Bhutan – đã chính thức khai mạc vào thứ Ba tại thủ đô Thimphu, trong không khí trang trọng của nghi lễ truyền thống xen lẫn hơi thở hiện đại. Diễn ra từ ngày 3–6 tháng 6, hội nghị kéo dài bốn ngày này là hội nghị Phật giáo quốc tế lần thứ năm do Vương quốc Bhutan tổ chức, được phối hợp bởi Tăng đoàn Trung ương Zhung Dratshang và Trung tâm Nghiên cứu Bhutan & Hạnh phúc Quốc gia GNH (CBS).
Vượt ra ngoài trọng tâm truyền thống của Kim Cương thừa vốn thường thấy trong các diễn đàn quốc tế trước đây mà Bhutan tổ chức từ năm 2016, hội nghị lần thứ năm này đã cởi mở đón nhận các tiếng nói từ nhiều truyền thống Phật giáo khác nhau cũng như từ các lĩnh vực thế tục. Hội nghị quy tụ gần 500 đại biểu, khách mời, người tham dự và diễn giả đến từ Bhutan và nhiều quốc gia trên thế giới như Hồng Kông, Hungary, Ấn Độ, Nhật Bản, Latvia, Myanmar, Nam Phi, Thái Lan, Ukraine, Venezuela, Hoa Kỳ, và nhiều nước khác.
Các đại biểu gồm những học giả, nhà khoa học, triết gia, hành giả cao cấp của Phật giáo Kim Cương thừa, và những vị lãnh đạo tinh thần từ mọi truyền thống Phật giáo. Họ cùng nhau trình bày, thảo luận và nghiên cứu các thực hành, tư tưởng, và quan điểm Phật giáo trong nỗ lực tạo ra các cuộc đối thoại liên ngành, nhằm soi sáng trí tuệ sâu sắc của những giáo lý cổ xưa lên các lĩnh vực công nghệ, nghiên cứu và xã hội của thế kỷ 21.
Trong buổi gặp mặt thân mật trước hội nghị vào ngày thứ Hai, Thủ tướng Tshering Tobgay đã có những chia sẻ sâu sắc về sự phù hợp của các thực hành Phật giáo trong xã hội đương đại.
“Nếu tâm trí bất an, các mối quan hệ sẽ chịu tổn thương; nếu trái tim nặng nề, thì dù công nghệ tốt đến đâu cũng không thể mang lại bình an,” ông Tobgay nhấn mạnh, cho thấy ngay cả những thực hành thiền định và chánh niệm cơ bản cũng đã mang lại hiệu quả rõ rệt cho mọi tầng lớp người thực hành.
Ông cũng nhận định rằng những xáo trộn khí hậu, bất bình đẳng xã hội và áp lực tâm lý không phải là các vấn đề riêng rẽ: “Việc giải quyết chúng đòi hỏi không chỉ có chính sách hay công nghệ, mà cần một sự hiểu biết sâu sắc hơn về chính mình, về các mối quan hệ, và thế giới mà chúng ta đang sống – đó chính là bản chất của chánh niệm.”
“Vì vậy, hội nghị này – nơi khoa học gặp gỡ thiền định, nghiên cứu gặp gỡ trí tuệ cổ xưa – là điều hết sức cần thiết,” ông nói thêm. “Khi chánh niệm trở thành một phong trào toàn cầu, chúng tôi hy vọng rằng nhiều xã hội sẽ tiếp cận theo hướng coi tâm trí là vừa nguồn gốc, vừa giải pháp cho nhiều thách thức hiện nay… Hội nghị này chính là hiện thân cho tầm nhìn đó.”
Hơn 200 đại biểu quốc tế và 60 diễn giả đến từ nhiều quốc gia đang cùng nhau khám phá các chủ đề trong bối cảnh Phật giáo, giải quyết những vấn đề then chốt của thế kỷ 21, bao gồm: nghiên cứu về thần kinh học; trí tuệ nhân tạo; bảo vệ tâm lý và nhận thức; giáo dục và sức khỏe; khía cạnh môi trường của đời sống và tu tập; nghiên cứu đạo đức và ý thức.
Giữa bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng về xã hội, môi trường, kinh tế và công nghệ, các diễn giả cũng tập trung vào những phương pháp cụ thể mà thực hành thiền định nâng cao có thể hỗ trợ trí tuệ cảm xúc, sáng tạo, hồi phục sau nghiện, sự khác biệt thần kinh và sức khỏe tinh thần.
Trong một cử chỉ mang tính tâm linh và biểu tượng sâu sắc, hội nghị đã chính thức khai mạc dưới sự hiện diện của Hoàng Thái hậu Ashi Dorji Wangmo Wangchuck, Công chúa Sonam Dechan Wangchuck, Đức Vairotsana Rinpoche và Đức Dorje Lopen** của Tăng đoàn Trung ương Bhutan.
Trong bài phát biểu khai mạc, Đức Dorje Lopen đã nhấn mạnh trí tuệ vô giá và tiềm năng chuyển hóa của Phật pháp đối với người thực hành cũng như xã hội loài người.
“Nói một cách tổng quát, đạo Phật do bậc Đạo sư vĩ đại – Đức Phật Thích Ca Mâu Ni – tuyên thuyết. Dù giáo lý thâm sâu hay giáo pháp Ngài truyền dạy có phức tạp đến đâu, thì có thể được phân thành hai con đường chính: Kinh thừa và Mật thừa, cả hai đều dẫn đến giải thoát.
“Hai thừa này – hay hai khía cạnh nền tảng – chỉ ra một con đường dẫn đến sự giải thoát. Kinh thừa nhấn mạnh vào việc hoàn thiện nhân duyên, trong khi Mật thừa nhấn mạnh vào mục tiêu thực hành và sự chứng đắc. Cả hai phương pháp tạo thành một quá trình dẫn đến sự giải thoát.”
Từ góc nhìn Mật tông về chủ đề khoa học, chánh niệm và thiền định của hội nghị, Đức Dorje Lopen nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thanh tịnh hóa các ảnh hưởng tiêu cực và ổn định ba cửa thân, khẩu, ý để đạt được lợi ích sâu sắc nhất từ thiền định.
Ngài tiếp tục: “Các chức năng của thân, khẩu, ý có thể được chia thành ba cấp độ: bên ngoài, bên trong, và thiêng liêng. Ở cấp độ bên ngoài, điều quan trọng là ta phải tránh gây tổn hại hoặc bạo lực qua thân.
“Tâm của chúng ta, nói chung, trong bất kỳ thực hành nào, phải được giải thoát khỏi tà kiến. Ta nên tránh tà kiến… và mọi ý nghĩ có thể gây hại cho bản thân hoặc người khác. Trong quá trình quán tưởng hay thực hành, tâm là yếu tố điều khiển hay động cơ chính dẫn dắt thân và khẩu.
“Người ta nói rằng nếu tâm ổn định và thanh tịnh, nó sẽ tự nhiên dẫn dắt thân và khẩu hướng đến những hành vi thiện lành. Nhưng cũng chính tâm ấy kéo ta trở về quá khứ. Và cũng chính tâm ấy khiến ta xây những ‘lâu đài trên mây’ khi suy nghĩ và hoạch định tương lai.
“Tuy nhiên, trong việc thực hành, ta không nên nhìn về quá khứ, cũng không nên lên kế hoạch cho tương lai. Thay vào đó, ta cần tập trung vào khoảnh khắc hiện tại, không bị xao lãng hay chi phối bởi cảm xúc tiêu cực hay hoàn cảnh bên ngoài. Nếu có thể giữ được thân, khẩu, ý trong kỷ luật này, ta sẽ thực hành đúng đắn và thiện lành.”
Đồng tổ chức hội nghị là Trung tâm Nghiên cứu Bhutan & Hạnh phúc Quốc gia GNH – đơn vị do chính phủ Bhutan giao nhiệm vụ nghiên cứu và điều phối các hoạt động liên quan đến triết lý phát triển Hạnh phúc Quốc gia Tổng thể. Bhutan, một quốc gia không giáp biển nằm trong dãy Himalaya phía đông, thường xuyên được xếp hạng là một trong những quốc gia hạnh phúc nhất thế giới. Với dân số chỉ 727.145 người (theo dữ liệu điều tra dân số năm 2022), Bhutan cũng là một trong những quốc gia nhỏ nhất và ít công nghiệp hóa nhất, nhưng có kinh nghiệm phong phú trong việc duy trì sự cân bằng mong manh giữa tăng trưởng kinh tế bền vững và truyền thống bảo tồn văn hóa.
Triết lý GNH được giới thiệu vào cuối những năm 1970 bởi vị vua thứ tư của Bhutan – Quốc vương Jigme Singye Wangchuk – và được định hình bởi văn hóa Phật giáo truyền thống. GNH là một sự thay thế cho các chỉ số phát triển truyền thống như tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hay tổng sản phẩm quốc nội (GDP), và được xây dựng trên bốn trụ cột chính: quản trị tốt, phát triển kinh tế xã hội bền vững, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống, và bảo vệ môi trường.
Chủ tịch Trung tâm CBS – Dasho Karma Ura – đã chào đón nồng nhiệt các khách mời và đại biểu, đồng thời chia sẻ quan điểm của ông về những nhân duyên cát tường của hội nghị đặc biệt này.
“Tôi xin được mượn lời của đại thi sĩ và hành giả vĩ đại thế kỷ 18 – Jigme Lingpa – trong bài thơ ‘Khúc Hợp Nhất’ mà một ca sĩ nổi tiếng của chúng tôi đã trình bày sáng nay: chúng ta đã đến với hội nghị này, hay theo hình ảnh của ông là hạ cánh trên một cái cây – vì ông ví đệ tử như những con công đậu trên cây – và đó là một cái cây như ý, nhờ vào những nguyện lực và nghiệp duyên tương liên của chúng ta, nếu ta tin vào điều đó.
“Đây sẽ là một sự kiện vô cùng lợi lạc, nơi mà như ông nói, chúng ta sẽ được uống cam lồ thiêng liêng, làm chín muồi và giải thoát chúng ta. Trong bài thơ đó, mặc dù viết ở Tây Tạng, đối tượng chính lại là một người Bhutan – đệ tử thân cận nhất của ông.
“Trong bài thơ ấy, Jigme Lingpa mô tả hành thiền của mình: rằng ngay cả khi không thiền định, ông vẫn có thể thấy hình ảnh của các vị bổn tôn; và ngay cả khi không thiền, ông vẫn ở trong trạng thái mà thân pháp Dharmakaya xuất hiện – hay ông trải nghiệm nó.
“Và quý vị cũng đang có mặt tại nơi mà một vị đại đạo sư tái sinh đang hiện diện sáng nay. Tôi vô cùng xúc động khi được cung kính chào đón Đức Vairotsana Rinpoche trong hội trường này. Như quý vị đã biết, Ngài là hóa thân của Vairotsana đầu tiên – một trong những đệ tử quan trọng nhất của Padmasambhava và Sri Singha – những vị đã dịch Phật pháp sang ngôn ngữ Himalaya.
“Qua dòng truyền thừa Đại Viên Mãn (Dzogchen) – được làm giàu bởi các tông phái khác của Kim Cương thừa – Vairotsana đã soi sáng con đường giác ngộ cho vô số người kể từ thế kỷ thứ 8. Và hôm nay, thật vinh dự khi Ngài hiện diện giữa chúng ta – trong hội trường 500 người này – với độ tuổi nhỏ nhất: 11 tuổi. Điều đó, đối với tôi, là niềm hy vọng cho Phật pháp và học thuật vượt qua giới hạn cuộc đời ngắn ngủi của chúng ta.”
“Tôi cũng vô cùng xúc động khi được chào đón Hoàng Thái hậu Bhutan và Công chúa Sonam Dechan Wangchuck,” ông Dasho Karma Ura nói. “Như quý vị đã biết qua mạng xã hội, Hoàng Thái hậu là một nhà văn và là nhà hoạt động xã hội – người sáng lập Quỹ Tarayana. Và Công chúa là thạc sĩ luật của Đại học Harvard, hiện là giám đốc Viện Luật Bhutan. Thật là một vinh dự lớn khi hội nghị có sự hiện diện của hai vị. Đây cũng là điều hiếm có, vì các thành viên hoàng gia hiếm khi tham dự các hội nghị học thuật – điều này cho thấy thế giới đã thay đổi rất nhiều.
“Cả Hoàng Thái hậu và Công chúa đều đã cống hiến cuộc đời mình cho cộng đồng yếu thế thông qua Quỹ Tarayana, được thành lập từ năm 2003. Nhờ những nỗ lực đó, nhiều ngôi làng đã được chuyển hóa: có nhà ở, nước sạch, học bổng giáo dục, chăm sóc sức khỏe, tài chính vi mô, và phát triển thủ công truyền thống để hỗ trợ nền kinh tế nông thôn… Tôi vô cùng cảm kích và xin gửi lời tri ân sâu sắc đến Hoàng Thái hậu, Công chúa và Đức Rinpoche – những vị hiện diện nơi đây – làm cho hội nghị này trở nên vô cùng đặc biệt.”
Bhutan, tọa lạc dưới chân dãy Himalaya và nằm giữa hai cường quốc kinh tế – chính trị là Ấn Độ và Trung Quốc, là quốc gia Phật giáo Kim Cương thừa cuối cùng còn tồn tại trên thế giới. Truyền thống tâm linh này đã ăn sâu vào tâm thức và văn hóa của vùng đất hẻo lánh này, với lịch sử không gián đoạn từ khi được truyền vào bởi Padmasambhava – hay còn gọi là Đức Liên Hoa Sanh – vào thế kỷ thứ 8. Gần 85% dân số Bhutan theo đạo Phật, phần lớn còn lại theo Ấn Độ giáo. Hầu hết Phật tử Bhutan theo truyền thống Drukpa Kagyu hoặc Nyingma của Kim Cương thừa.
Tiếp nối nền tảng tâm linh của Hội nghị Kim Cương thừa quốc tế lần đầu tiên được tổ chức năm 2016, hội nghị lần thứ năm này tiếp tục khẳng định giá trị thiết yếu và không thể phủ nhận của trí tuệ, triết lý và thực hành Phật pháp đối với cả đời sống thế tục lẫn tâm linh. Các đại biểu sẽ cùng nhau trao đổi kiến thức, kinh nghiệm để thúc đẩy đối thoại liên ngành, xây dựng những nhịp cầu nối liền trí tuệ cổ xưa với kiến thức khoa học – công nghệ hiện đại, hướng đến một thế giới nhân ái, đầy từ bi và bền vững – vì lợi ích của tất cả chúng sinh.