Trang chủ Tu học Phổ thông Phật học căn bản (phần 1)

Phật học căn bản (phần 1)

104

1. Tôn Giáo Thường Thức


Trên thế giới chỉ có ba tôn giáo có lịch sử lâu đời và có tính toàn cầu là:


• Phật giáo khởi nguyên từ Ấn Độ


• Cơ Đốc giáo bắt đầu từ Trung Đông


• Hồi giáo


Hồi giáo và Cơ Đốc giáo (Thiên Chúa giáo và Tin Lành) điều bắt nguồn từ Do Thái giáo, Do Thái giáo cho đến tận bây giờ vẫn là Tôn giáo mang tính dân tộc. Các nước phương đông như Trung Quốc, Ấn Độ cũng có tôn giáo mang tính dân tộc, như đạo giáo của Trung Quốc, hay như chỉ có người Ấn Độ tin theo như Bà la môn giáo và Ấn giáo của Ấn Độ.


Đạo giáo của Trung Quốc chia làm hai hệ thống. Hệ thống triết học có Lão tử và Trang tử được gọi đạo gia. Hệ thống đạo thuật có hai phái là phái kim đơn và phái phù chú. Phái kim đơn là chuyên luyện đơn và luyện khí, gồm có nội đơn và ngoại đơn. Nội đơn là luyện khí công, ngoại đơn là luyện kim thuật, tức là đem kim thuậc luyện thành đơn dược. Họ tin rằng khi uống những kim đơn đó có thể mọc cánh bay lên trời, hay được sống lâu bất tử. Phái phù chú tức là dùng phương pháp luyện bùa chú để sai khiến quỷ thần, lấy sức mạnh của ma quỷ để giải việc của con người và được gọi là đạo giáo. Đạo giáo của Trung Quốc cho đến nay vẫn chưa trở thành tôn giáo của thế giới, nhưng trên phương diện học thuật toàn cầu thì có tư tưởng đạo gia.


Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới, do công của A Dục Vương đã lập những đoàn truyền giáo mang giáo lý Phật Đà truyền sang Á Châu, thậm chí cả Châu Âu.


Tôn giáo ở phương Đông thì Phật giáo là tôn giáo đầu tiên trở thành tôn giáo mang tính thế giới.


Tôn giáo mang tính thế giới cao cấp cần hội đủ ba điều kiện: giáo lý, giáo chủ, giáo đoàn. Như Phật giáo Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là giáo chủ, những kinh điển Phật nói là giáo lý, Tăng đoàn đệ tử của Phật được truyền thừa từ đời này sang đời khác gọi là giáo đoàn. Cơ Đốc giáo, giáo chủ là Đức Chúa Giê Su, thánh kinh là giáo lý, môn đồ và tín đồ là giáo đoàn. Hồi giáo Mô-ha-mét là giáo chủ, thánh kinh Cô Ran là giáo lý, tín đồ là giáo đoàn.


Trong lịch sử lâu dài của tôn giáo không biết bao lần thịnh suy có thể nói từ khi có con người thì nhu cầu và hiện tượng tôn giáo trong xã hội loài người cũng đồng thời phát sinh. Có tôn giáo mang tính khu vực, có tôn giáo mang tính dân tộc hay bộ lạc. Cũng lại có tôn giáo mang tính thời đại. Tất cả các tôn giáo này điều bắt nguồn từ kinh nghiệm siêu hình của những cảm ứng đối với ma quỷ. Trong xã hội cổ đại phương tây đều cho đó là ma quỷ và không cho phép được truyền bá. Còn ở phương đông thì thường được nguỵ xưng là Phật giáo. Thật ra đó là những tôn giáo mà theo quan điểm chính thống của Phật giáo gọi đó là ngoại đạo tà giáo. Những tôn giáo này thường không có căn bản lý thuyết và chế độ tổ chức chu đáo nên thường hình thành rồi tan biến liên tục trong lịch sử xã hội loài người.


Trong thời đại mở cửa, đa nguyên của xã hội ngày nay càng có nhiều tôn giáo mới ra đời như măng mọc sau cơn mưa, như các nước Âu Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Công, ngay cả đến những nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam cũng có nhiều tôn giáo mới ra đời, có mấy chục, đến mấy trăm, rồi trăm nghìn cho đến cả hàng trăm triệu người theo, nhưng các tôn giáo này điều gặp một hiện tượng là sẽ suy yếu và tan biến ngay sau khi vị sáng lập qua đời, sức hấp dẫn của người đó không còn tồn tại nữa.


2. Lịch sử phát triển của Phật giáo


2.1 Phật giáo phát sinh từ Ấn Độ


Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ. Phật giáo Ấn Độ phát triển qua ba thời kỳ.


2.1.1 Thời Phật còn tại thế và sau khi diệt độ khoảng hai trăm (200) năm


Thời kỳ này gọi là thời kỳ nguyên thuỷ của Phật giáo, đây là thời kỳ thuần nhất của Phật giáo. Đức Phật phản đối việc cúng bái mê tín, phản đối việc sùng bái ngẫu tượng, Ngài không chủ trương việc thần thánh hoá cá nhân mà chỉ dạy mọi người thực hiện theo giáo pháp và tuân giữ giới luật. Ngài thường dạy các đệ tử, ta không phải là người lãnh đạo, ta chỉ là một thành viên trong tăng đoàn mà thôi. Đức Phật dùng những quan niệm và phương pháp bình đẳng, thiết thực để giúp đỡ chúng sinh thoát khỏi những khổ não của thân tâm. Đối tượng của kinh luật là con người, mục đích của kinh Phật là cứu độ con người.


2.1.2 Thời kỳ sau Phật diệt độ khoảng bốn trăm (400) năm


Tư tưởng Phật giáo dần dần có sự biến đổi và mang tính khu vực. Ở Ấn Độ do khí hậu, ngôn ngữ và dân tộc khác nhau nên quá trình truyền bá của Phật giáo trên phương diện hình thái và tư tưởng cũng có nhiều thay đổi. Mỗi một vị thầy khi truyền bá ở mỗi khu vực khác nhau, vì để thích ứng với nhu cầu của đại chúng cùng xã hội đương thời nên sinh ra những khác biệt trên phương diện hình thức cùng tư tưởng nên thời kỳ này còn gọi là thời kỳ bộ phái Phật giáo. Thời kỳ bộ phái Phật giáo chú trọng nhiều đến việc chỉnh lý, lý luận và biện minh của quan niệm có xu hướng coi trọng việc giải thoát của cá nhân. Do vậy mà sau này xu hướng Đại thừa gọi bộ phái Phật giáo này là Tiểu thừa. Nhưng bộ phái Phật giáo có hai bộ phận lớn là:


• Thượng toạ bộ nhiều tư tưởng bảo thủ


• Đại chúng bộ nhiều tư tưởng cởi mở hơn


Theo quan điểm của Tiểu thừa là cổ xe nhỏ chú trọng nhiều đến tư tưởng tự độ hơn độ tha. Ngày nay không nên dùng danh từ này mà nên gọi là Nam truyền hay Nam Tông.


Đại thừa Phật giáo (theo cách gọi trước đây) hình thành sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn từ năm trăm (500) đến một ngàn (1000) năm. Đề xướng tinh thần Bồ-tát-đạo vì lợi ích của quảng đại chúng sinh, vì thành tựu Phật đạo phát Bồ-đề-tâm. Đại bồ đề tâm là tâm nguyện “Nguyện độ chúng sinh đồng ly khổ nạn, không vì sự an lạc của tự thân” đó chính là tinh thần “vì mọi người”. Đại thừa Phật giáo (nay nên gọi là Bắc tông, hay Bắc truyền) ở Ấn Độ chia thành ba phái là:


• Y cứ tư tưởng Bát Nhã gọi là Trung Quán học phái


• Y cứ tư tưởng Duy thức gọi là Du Già học phái


• Y cứ tư tưởng Duy tâm gọi là Như Lai Tạng học phái


Ba học phái này quy thành hai phái chính là:


• Tư tưởng tính không gọi là phái Trung Quán


• Tư tưởng hữu, có Duy thức và Duy tâm, Duy thức là Du Già phái, còn Duy tâm là Như Lai Tạng phái


2.2. Phật giáo từ Ấn Độ truyền lên phương bắc


Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang phương bắc chia làm hai hệ thống đó là: vùng văn hoá dân tộc Hán ở Trung Nguyên Trung Quốc và vùng văn hoá dân tộc Tây Tạng, Mông Cổ vùng biên cương Trung Quốc. Phật giáo truyền đến Trung Quốc vào khoảng năm sáu trăm mười bảy (617) tây lịch. Do hai vị Tăng Ấn Độ là Ca Diếp Ma Đà và Trúc Pháp Lan dùng ngựa trắng chở kinh đến Lạc Dương. Bộ kinh đầu tiên được dịch sang hán văn là bộ kinh “Tứ Thập Nhị Chương”. Kinh điển chữ hán trải qua quá trình phiên dịch trước tác hơn một ngàn năm đã hình thành nên Phật giáo của người Hán Trung Quốc. Rồi từ đó Phật giáo Trung Quốc truyền sang các nước lân cận, đầu tiên hết là Hàn Quốc, rồi từ Hàn Quốc truyền sang Nhật Bản, người Nhật sau khi được Phật giáo truyền từ Hàn Quốc sang đã phái nhiều Du học sinh sang Trung Quốc học đạo cầu pháp. Từ thời Tuỳ Đường cho đến Tống Minh. Nhật Bản là nơi duy nhất đã có đủ tất cả tông phái của Trung Quốc truyền sang. Trung Quốc trong thời kỳ pháp nạn, “Tam Vũ Nhất Tông” nhiều kinh điển sau đó đã không còn nhưng đã được Phật giáo Nhât Bản giữ gìn nguyên vẹn, đây là công đức không nhỏ. Ngoài Hàn Quốc, Nhật Bản và Phật giáo Đại thừa Trung Quốc còn được truyền sang Việt Nam.


Phật giáo Trung Quốc có mười tông phái gồm cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Tiểu thừa có hai tông phái: Câu xá và Thành Thật tông. Sau này Câu xá tông xác nhập vào Duy thức tông. Thành Thật tông nhập vào Tam Luận tông, nên chỉ còn lại là tám tông phái Đại Thừa là Thiên Thai tông, Tam Luận tông, Hoa Nghiêm tông, Luật tông, Tịnh Độ tông, Mật tông, Thiền tông và Pháp Tướng tông. Trong tám tông phái này cho đến nay chỉ có Thiền và Tịnh Độ tông là phát triển mạnh nhất. Trên thực tế đa phần các chùa ở Trung Quốc điều thuộc Thiền tông, nhưng chỉ tu Thiền thôi mà không niệm Phật thời rất ít. Do đó đã hình thành nên pháp môn Thiền Tịnh song tu.


Thiên Thai tông, Duy thức tông, Hoa Nghiêm tông chuyên về nghiên cứu học vấn chùa viện và đồ chúng rất ít. Tất cả những người xuất gia điều phải thọ giới, nhưng hiện nay không có quy định là chỉ có chùa thuộc Luật tông mới được phép truyền giới. Những vị xuất gia chỉ chuyên trì luật và học luật còn rất ít. Trước năm 1949 ở Trung Quốc Đại Lục chùa thuộc Luật tông không còn nhiều chỉ có vài chùa mà thôi.


Mật tông truyền vào Trung Quốc vào đời nhà Đường, sau đó từ Trung Quốc truyền sang Nhật và từ đó về sau Mật tông không còn có ở Trung Quốc nữa. Người Trung Quốc vì sao không thích Mật tông? Có thể là do ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia cho những quan niệm chú lực, thần lực gia trì trong Mật tông là những hiện tượng dị thường nên trong khu vực văn hoá Hán ngữ Trung Quốc Mật tông không thể thịnh hành được.


Đến thế kỷ thứ 7 một đợt truyền bá nữa của Phật giáo Đạt thừa từ Ấn Độ truyền sang phương bắc, đầu tiên hết truyền đến Tây Tạng, sau đó truyền sang Mông Cổ. Đây là Phật giáo thuộc khu vực văn hoá Tạng Mông. Vào thời kỳ đó Mật tông đang rất thịnh hành ở Ấn Độ, sau khi truyền vào Tây Tạng từ từ đã phù hợp với nhu cầu của người dân Tây Tạng đồng thời kết hợp với Tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc vùng núi Tây Tạng hình thành nên Mật tông Tây Tạng ngày nay. Mật tông vốn là một nhánh của hệ thống Phật giáo Duy tâm ở Ấn Độ.


2.3 Phật giáo từ Ấn Độ truyền xuống phương nam


Năm hai trăm bốn mươi (240) trước Tây lịch Phật giáo từ Ấn Độ truyền xuống phía nam như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, một số nước Đông Nam Á khác như Lào, Cam Pu Chia, Việt Nam. Phật giáo truyền xuống phương nam thuộc Thượng Toạ Bộ. Vì các nước này vốn không có Tôn giáo cao cấp khác, cũng không có tư tưởng văn hoá triết học lớn, nên khi Phật giáo truyền đến thời không có sự thay đổi lớn, nên mang đậm nét màu sắc Nguyên thuỷ của Phật giáo hơn.


2.4 Phật giáo truyền sang Âu Mỹ và khắp thế giới


Phật giáo đầu tiên được truyền sang Âu Mỹ là hệ thống Phật giáo Nam truyền do các giáo sĩ và học giả phương tây đã theo chân các thế lực chính trị đến các vùng đất thuộc địa ở Tây Nam Á và Đông Nam Á, họ tiếp xúc với Phật giáo ở các nơi đó và đem kinh điển Phật giáo dịch sang tiếng các nước Âu Mỹ như công trình phiên dịch “Thế giới Phật giáo Thánh Điển” dịch từ kinh điển tiếng Pali của Nam Truyền.


Thứ đến là Thiền của Phật Giáo Nhật Bản được truyền sang Âu Mỹ. Phật giáo của Nhật Bản cũng có nhiều tông phái, trong đó Tịnh Độ Chân tông và Nhựt Liên Tông đã trở thành Tôn giáo riêng của Nhật Bản, duy chỉ có Thiền tông của Nhật Bản vẫn còn giữ được phong cách của Phật giáo truyền từ Trung Quốc sang. Do vậy người Âu Mỹ đã tiếp nhận Thiền của Nhật Bản. Người có công lao truyền bá Thiền của Phật giáo Nhật Bản là Thiền Sư Suyuki lúc đầu Thiền Sư Suyuki đã giảng về Thiền ở trường Đại học Co Lum Bia, sau đó tư tưởng Thiền của Ngài đã được truyền bá ở Mỹ và Âu Châu. Dần Dần đã có nhiều vị Thiền Sư Nhật Bản khác đến thành phố San-phan-xi-cô rồi đến miền Đông và hiện nay đã truyền đến miền Trung và Tây nước Mỹ cũng như một số nước ở Âu Châu.


Thứ ba là Phật giáo Mật tông Tây Tạng theo làn sóng di dân tị nạn của dân Tây Tạng sang Ấn Độ. Lúc đó Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa theo mấy chục nghìn vị Lạt Ma trẻ tuổi đã được giáo dục và đào tạo rất quy củ từ nội điển, pháp tu đến ngoại ngữ, sau đó các vị này đã cùng dân Tây Tạng đến khắp các nước trên thế giới. Những vị Lạt Ma này có năng lực thích ứng và khả năng truyền đạt rất lớn vì họ được đào tạo rất kỷ càng và có hệ thống từ thấp đến cao, cả nội điển, ngoại điển lẫn pháp tu. Rồi cùng với ảnh hưởng của Đức Đạt Lai Lạt Ma họ đã xây dựng nên những Trung tâm Phật giáo Tây Tạng rất lớn trên khắp các nước Âu Mỹ và đem Phật giáo truyền bá mạnh mẽ khắp các nước Phương Tây.


Một hệ thống truyền bá Phật giáo ở Phương Tây nữa cũng phải đề cập đến là Phật giáo Việt Nam, sau năm 1975 cho đến nay cũng đã có mặt ở hầu khắp các nước Âu Mỹ nơi có cộng đồng người Việt Nam sinh sống.


3. Giáo nghĩa căn bản của Phật giáo


3.1. Phật giáo lấy Tam Bảo làm trung tâm


Tam Bảo chính là Phật, Pháp, Tăng. Phật là Đức Thích Ca Mâu Ni tu hành trải qua vô lượng kiếp sau thành Phật. Ngài đem quá trình tu tập, phương pháp tu tập giảng dạy đó chính là pháp. Nhưng Phật chỉ có một không thể độ hết quảng đại chúng sinh, hơn nữa sau khi Phật nhập diệt người đời sau muốn học Phật pháp phải nương dựa vào chư Tăng. Tăng có Thánh Tăng và phàm phu Tăng. Những vị xuất gia tu chứng đắc từ sơ quả trong Tứ Thánh trở lên và những bật chứng đắc từ sơ địa Bồ-tát trở lên gọi là Thánh Tăng. Những vị xuất gia bình thường là phàm phu Tăng. Trụ trì Phật pháp chủ yếu là phàm phu Tăng. Thánh Tăng xuất hiện trong phàm phu Tăng, dùng thân tướng phàm phu Tăng để tiếp cận và hoá đạo phàm nhân. Cho nên những bậc được tôn xưng là Bồ-tát, Phật hay Thánh Tăng trong lịch sử nhân vật của Phật giáo điều do người đời sau, hay chúng đệ tử tôn xưng họ chứ không phải những vị ấy tự tôn xưng mình là Phật, là Bồ-tát, hay là Thánh Tăng. Như ở Ấn Độ các ngài Mã Minh, Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân điều được người đời sau gọi là Bồ-tát, hay như ở Trung Quốc ngài Trí Giả Đại Sư tông Thiên Thai, người đời sau gọi Ngài là Đông Độ Tiểu Thích Ca, nhưng Ngài vẫn nói Ngài là người phàm phu lục căn chưa thanh tịnh. Hay Thiền Sư Vĩnh Minh Diên Thọ được người sau gọi là Di Đà tái thế, vì Ngài sinh vào ngày 17 tháng 11, nhưng Ngài chưa từng nói mình là Phật Di Đà. Trong Phật giáo những vị tự xưng mình là Thánh Nhân, là Phật thì chắc chắn rằng người này đang có vấn đề.


3.2. Phật giáo lấy Tứ Thánh Đế làm căn bản


Tứ Thánh Đế là sự thật của khổ, nguyên nhân của khổ, phương pháp diệt khổ và kết quả đạt được sau khi đã diệt trừ được khổ. Cuộc sống của con người từ khi sinh ra đến lúc chết, có khổ có vui, nhưng vui chỉ là sự trả giá của khổ đau cũng chính là sự bắt đầu của khổ. Cái gọi là “khổ tận cam lai”, “lương tiêu khổ đoạn” là nói rõ bản chất của vui là từ khổ đau cả, là lấy khổ đau để đánh đổi niềm vui, vui ở đời không gì là vĩnh cữu cả. Đạo Phật gọi đó là hoại khổ, còn sinh lão bệnh tử là khổ khổ. Sự thật của đời người là kết quả của khổ đau. Khổ có nhiều loại. Khổ khổ có tám là sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, cầu bất đắc, oán tắn hội khổ và ngũ ấm xí thạnh khổ. Ngũ ấm xí thạnh là sự hổ tương giao bức giữa thân với tâm, nên có sự liên tục của sinh tử.


Tập là nguyên nhân của khổ vì không hiểu vạn pháp là do duyên giả hợp nên ghét khổ ham vui, cầu được vui rồi thì lại cầu an toàn nhưng vĩnh viễn không cảm thấy an toàn đó chính là cầu mãi không chán. Mê muội cho rằng tiền là tất cả nên “vùi đầu vùi cổ” lo kiến tiền. Có tiền rồi thì không dám sài, làm nô lệ cho đồng tiền, còn không tiền thì lo đi kiếm… Tất cả điều là nguyên nhân của khổ đau. Đời này vì ghét khổ cầu vui mà tạo bao ác nghiệp như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ. Các nghiệp do duyên kết hợp mà sinh bao quả báo. Thiện có thiện báo, ác có ác báo tất cả đều là nguyên nhân của khổ đau.


Phương pháp căn bản của diệt khổ là Bát Chính Đạo. Muốn diệt khổ cần tu chính đạo, muốn tu được chính đạo thì phải có chính tri kiến, tin tưởng sâu sắc rằng tất cả hiện tượng ở đời đều sinh ra từ lý nhân quả, tư duy rằng tất cả vạn pháp trên thế gian này đều do nhân duyên tụ hội mà thành. Nếu hiểu và tin tưởng vào nhân quả thì không tham và không trốn tránh trách nhiệm vì biết rằng muốn lìa khổ được vui điều quan trọng là phải dựa vào sự nổ lực của tự thân. Nếu hiểu rõ vạn pháp ở đời đều do duyên sinh nên vô thường thì thắng không kiêu, bại không nản, thành công là do nhiều người giúp sức và do các duyên tụ hội. Hơn nữa việc đã thành tựu rồi cũng sẽ đổi thay theo thời tiết nhân duyên. Tóm lại tin nhân quả, rõ nhân duyên chính là chính tri, chính kiến và chính tư duy vậy. Sau khi đã có chính tri, chính kiến rồi cần phải tu hành chính xác nữa. Một là có nghề nghiệp chính đáng không làm những nghề liên hệ đến sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ và rượu cùng các chất gây nghiện. Cần có lối sống chính đáng không mê tham trong ăn chơi, cờ bạc, hút sách. Lại cần có ngôn ngữ hành vi chính đáng không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói lời ác và không nói thêm thắt. Ngoài ra còn cần tinh tấn trì giới, tin tấn tu tập và thiền định cùng nổ lực cần cầu trí tuệ. Sống theo tinh thần Bồ-tát hạnh làm việc lợi mình lợi người. Giữ gìn giới luật, tu tập thiền định giữ cho thân tâm luôn trong trạng thái quân bình thì tín tâm mới kiên cố, nổ lực tụng kinh bái sám, nghe pháp rồi như pháp tu trì thì sẽ khai phát trí tuệ, có được trí tuệ thì sẽ diệt được khổ đau.


Kết quả của sự diệt khổ là giải thoát được hết thảy phiền não buộc ràng, lìa được sinh tử luân hồi. Ở trong đời thường làm việc lợi đời lợi đạo mà không bị phiền não ràng buộc và chi phối chính là ở trong Đại Niết Bàn vậy.


(Hết phần một – xem phần 2)