Bài 1. Phât Hoàng Trần Nhân Tông nhập hồn lưu bút hậu thế?
Có lẽ chỉ đến khi 121 bài thơ “Hoa lư thi tập” ra đời trong câu chuyện kỳ bí tại chùa Bái Đính, Tràng An (của Dương Kỳ Anh) thì độc giả mới có thể hiều được rằng, tác giả chính 2 tập thơ “Thi Vân Yên Tử" và "Ngoạ Vân Yên Tử” không phải là của Hoàng Quang Thuận.
Bản thân GS.TS. Hoàng Quang Thuận cũng chưa bao giờ tự nhận mình là tác giả của 3 tuyển tập thơ đó. Tác giả đã từng nói, khi tôi viết “thơ cứ tự đến như không, cứ trào ra như từ một mạch nước ngầm và tôi chỉ chép lại…”
Hoàng Quang Thuận đã làm thơ trong trạng thái không ý thức được về bản thân mình.
Một con người 50 năm chưa từng làm thơ, chưa trải qua thiền định, chưa chứng thiền làm sao có được sự an định của nội tâm để cảm nhận được cái vô cùng, vô tận của trời đất cái lung linh huyền ảo của thiên nhiên và cái hùng vĩ của núi thiêng Yên Tử.
Theo tư duy thế gian lẫn xuất thế gian thi Hoàng Quang Thuận khó có thể cho ra đời những bài thơ xuất thế, siêu phàm như thế.
Nhà văn Trần Trọng Tân nói “Chỉ nhờ lòng thành và có tâm mà làm được thơ sao? Nhưng với Hoàng Quang Thuận hiện thời chưa có cách giải thích nào khác”.
Đối với các nhà thơ và độc giả bình thường, những bài thơ trong 3 tuyển tập mang một nét gì đó rất Việt cổ và thoát tục từ câu chữ cho đến thần khí của thơ. Nhưng đối với người đã chứng thiền thì thấy đây là những vần thơ của vị thiền sư đã chứng đạt mức quả vị rất cao trong thiền định.
Sự hoà quyện giữa con người và thiên thiên vũ trụ lung linh, huyền ảo. Cái đẹp của thiên nhiên được tạo dựng bởi giữa Thực và Hư, giữa Sắc và Không, giữa Hữu và Vô, giữa động và tĩnh. Những chân lý thâm sâu của cuộc đời, vinh hoa phú quý gắn liền với những đau khổ quanh quần trong vòng tục luỵ luân hồi….
Những vần thơ mà người phàm khó có thể làm được.
Nhiều người cho rằng đây là nhưng vần thơ thánh vì sự thoát tục của nó. Nếu chưa chứng được một mức độ nào đó trong định thì không thể có cái nhìn cảnh vật thiên nhiên cũng như có được nhân sinh quan lạc quan đến như vậy.
Thơ phàm có thể tả được thiên nhiên tinh tế, tuyệt vời nhưng khồng thể có được cái thần khí (đượm gió ngàn cao, thấm nguồn suối núi – Đại tướng Võ Nguyên Gíap) của các vị thiền sư. Chỉ có những người đã từng hành thiền mới có được cái hỷ lạc, niềm vui bất tận của sự tĩnh tịch, tâm tròn đầy viên mãn thấm đầy từ bi của người hiểu được càn khôn vũ trụ trong cuộc sống cô độc, ẩn dật cùng gió núi mây ngàn.
Như vậy, nếu Hoàng Quang Thuận không phải là tác giả của những vần thơ đó thì ai là tác giả của nó ? Nhiều người cho rằng đó là chuyện kỳ bí không thể giải thích được hay do duyên tiền định, do Phật phù hộ, do tiên nhân nhập bút…
Dù là Phật gia hộ hay tiên nhân nhập bút thì cũng phải có một đối tượng tác giả nào đó. Dù chưa có một bằng chứng thực tế nào nhưng người đọc đều có chung một cảm nhận, người tạo nên những vần thơ siêu phàm đó không ai khác chính là Phật Hoàng Trần Tông.
Đối với các Phật tử, hay những người có cuộc sống tâm linh tin vào thế giới bên kia thì không có điều gì phải suy luận nghĩ bàn. Nhưng đối với những người bình thường thì cũng khó có thể phủ nhận.
Dù mọi sự so sánh đều là khập khiễng, nhưng chúng ta thử đưa một số bài thơ trước đây của Phật Hoàng Trận Nhân Tông đối chiều với một số bài thơ trong 3 tập thơ của Hoàng Quang Thuận ta thấy khá tương đồng.
Bản dịch của thơ thiền Phật hoàng Trần Nhân Tông trước đây được lấy trên website Trang nhà Quảng Đức (không rõ tên tác giả dịch) rất gần gũi với văn phong thơ thiền, có lẽ người dịch cũng là một thiền sư.
TRĂNG
Đầy sách, giường song chếch bóng đèn
Sân thu sương bủa thoáng hơi đêm
Tiếng chày thức dậy đâu hay biết
Hoa mộc trên cành trăng mới lên
Trăng Yên Tử
Trăng treo lơ lửng trên cành tùng
Trăng rắc vàng trên cánh hoa nhung
Sương đêm sực nức mùi hoa đại
Mỗi bước trăng trôi giữa núi rừng…
Lung linh huyền ảo ánh trăng rơi
Tiếng hạc trong đêm tận cõi trời
Hạ giới thần tiên hay đất Phật
Chị Hằng chú Cuội mãi rong chơi?
MẠN HỨNG Ở SƠN PHÒNG
Ai buộc mà đi giải thoát tìm?
Không phàm sao phải kiếm thần tiên
Vượn mòn, ngựa mỏi ta già phải.
Như cũ am mây một sập thiền
Phải trái tâm theo hoa sớm rơi
Lợi danh lòng lạnh mưa đêm rồi
Hoa tàn, mưa tạnh non im ắng
Một tiếng chim kêu xuân hết thôi.
Luận đời
Đời giống mây trôi trên đỉnh núi
Phù vân tán tụ một kiếp người
Vinh hoa phú qúy vòng tục lụy
Bể khổ trần gian kẻ đầy vơi
Tìm đến Yên Sơn tẩy bụi trần
Hào quang tỏa sáng đỉnh Phù Vân
Ngọa Vân Yên Tử theo ngày tháng
Linh Sơn đất Phật mãi trường xuân…
CẢNH CHIỀU Ở CHÂU LẠNG
Chùa cổ đìu hiu khuất khói mờ
Thuyền câu chiều quạnh tiếng chuông đưa
Nước quang non lặng vờn âu trắng
Gió lặng mây đùa cây đỏ thưa.
Chùa một mái
Một mái chùa xưa giữa trần ai
Chênh vênh lưng núi nửa trong ngoài
Hoa bưởi trước chùa đơm trắng xóa
Bạch vân triền núi một cành mai
NGẮM CẢNH CHIỀU THIÊN TRƯỜNG
Thôn trước thôn sau tựa khói nhòa
Nửa không nửa có mé chiều sa
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi ruộng xuống sà.
Đồng quê
Sông nước bao la cảnh hữu tình
Nắng tràn thung rộng sóng lung linh
Chim bơi cá nhảy trên sông vắng
Đâu biết ngày xưa cảnh chiến chinh
Đàn dê gặm cỏ bên chân núi
Mục đồng thổi sáo dắt trâu về
Lam chiều vương khói trên giàn mướp
Ráng hồng nhuộm thắm cánh đồng quê
Nếu đọc liền một mạch không để ý đến tiêu đề của từng bài thơ, ta có cảm giác như là của một tác giả sáng tác. Với những cảm xúc hồn nhiên không gợn niềm trần tục, tác giả cảm nhận thiên nhiên bằng tâm hồn tĩnh tại, an nhiên, Chính cái không gian tĩnh mịch vắng lặng đó mới nghe được những tiếng động nhỏ nhất của thiên nhiên như : tiếng rơi của sương, tiếng hạc kêu trong đêm, tiếng gió thổi…
Nếu so với bài thơ đích thực của Hoàng Quang Thuận sáng tác ta sẽ thấy sự khác biệt rất xa về phong cách từ cách gieo vần, từ ngữ và thần khí trong thơ.
Ân hận
Đêm nay ta không ngủ
Đôi mắt sáng của ngươi
Sáng dưới ánh sao trời
Cứ nhìn ta thăm thẳm
Chùa Giải Oan cung nữ
Phải ngươi về hôm nay ?
Ôi, ta ân hận quá
Không giải thoát cho mày!
(Hoàng Quang Thuận)
Có thể nhiều người sẽ đặt câu hỏi, tại sao 3 tuyển tập thơ trên là của Phật Hoàng Trần Nhân Tông mà không phải một tiên nhân thơ nào khác. Vì sao Phật Hoàng Trần Nhân Tông lại chọn Hoàng Quang Thuận để nhập hồn lưu bút chứ không phải một thiền sư hay một nhà thơ chuyên nghiệp làm sứ giả thơ cho mình.
Với Thi Vân Yên tử, Ngoạ Vân Yên tử thì có thể nhưng với Hoa lư thi tập thì sao? Những bài thơ trong Hoa Lư thi tập là viết vế cố đô Hoa Lư cách thời kỳ Nhà Trần gần 300 năm.
Thực tế những điều này không thể trả lời theo cách thức thông thường tức là, những bằng chứng thực tế, khoa học. Nó thuộc về thế giới tâm linh nên phải dựa theo tâm linh để giải thích.
Theo Phật pháp: Trong vũ trụ không chỉ tồn tại một cõi giới con người. Cõi người vẫn luôn chịu tác động của nhiều cõi giới khác. Cõi giới khác chỉ có thể nhập vào người trần khi đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Nghĩa là tâm của người được nhập và các thánh nhân phải có sự đồng điều cùng tần số sóng âm.
Như một cuộc hạnh ngộ duyên tiền định, Hoàng Quang thuận vốn sẵn có lòng từ bi, trí tuệ cao lại yêu thích thơ thiền đã trở thành nơi chuyển tiếp trung gian giữa cõi người và cõi trời.
Nếu những bài này nhập vào các vị thiền sư hoặc các nhà thơ chuyên nghiệp thì người trần thế khó có thể biết được đây là sự nhập bút của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Như vậy rất khó có thể biết được các sự kiện xẩy ra trước đây, tâm tư nguyện vọng của ngài trước sự kiện bỏ ngôi vua đi tu và những nỗi trăn trở khi các cung nữ theo ngài lên núi rừng thiêng Yên Tử…
Thêm nữa, Thi vân Yên tử, Ngoạ Vân Yên tử được nhập bút vào thời điểm năm 1997, tức là thời kỳ con cháu Rồng Lạc Việt hầu như chưa quan tâm gì đến các di tích chùa đền cổ xưa, nhất là núi thiêng Yên Tử. Phải chăng đây là điều nhắc nhở hậu thế của Phật Hoàng?
Đối với Hoa Lư thi tập dù sự kiện diễn ra trước đó 3 thế kỷ, nhưng đối với các vị A la hán, bồ tát…không tái sinh trở lại thì họ có thể nhìn lại được vô lượng kiếp quá khứ. Vì vậy mà 121 bài thơ Hoa Lư thi tập đã được nhập bút gần sát với thời điểm lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, khi Hoàng Quang Thuận đến phủ đền Trần xin tiên nhân nhập bút.
Văn phong cũng như thần khí của Hoa lư thi tập không khác gì Thi Vân Yên Tử và Ngoạ Vân Yên tử.
CỐ NHÂN
Cố nhân quay lại đã nghìn năm
Đô thành ngày ấy dưới trăng rằm
Hoa trôi giếng Ngọc đâu còn nữa
Lư thành người cũ có viếng thăm
Cung điện vàng son một thuở nào
Thuyền rồng sóng vỗ mạn lao xao
Ngàn thu bóng xế bao ưu hoạn
Để lại kinh thành vạn ánh sao
LÀNG CỔ
Mái nhà ẩn hiện dưới rặng cây
Nước trong núi biếc đá rêu đầy
Làng quê yên ả trong thung núi
Kinh đô Việt cổ gió ngàn tây
Dậu tre phên liếp Cố Viên Lầu
Ba bề dựa núi ở thung sâu
Chuối xanh trổ quả bên hè vắng
Trước sân xào xạc mấy hàng cau
Bài 2 – Thi vân Yên từ , Ngoạ Vân Yên từ – Cuộc đời, con người Phật Hoàng Trần Nhân Tông.








