Trang chủ Diễn đàn Chấn hưng Phật giáo Cải đạo: Nguyên nhân và biện pháp ngăn ngừa

Cải đạo: Nguyên nhân và biện pháp ngăn ngừa

184

Một tôn giáo (học thuyết) có thể tồn tại được với thời gian và không gian nhờ BA TIÊU CHÍ căn bản: Nhân bản, Thực dụng và Khoa học.  

Nhân bản: Trong hơn hai ngàn năm truyền giáo, đạo Phật chưa hề làm đổ một giọt máu cho bất cứ ai, kể cả loài vật. Trái lại, vài tôn giáo đã làm thiệt mạng trên 200 triệu người.

Thực dụng: Giáo pháp của Phật có thể áp dụng cho nhiều lãnh vực của nhân loại như văn hóa, hòa bình, khoa học, môi trường sinh thái, sức khỏe và các lợi ích khác cho con người. Trái lại, có tôn giáo thì luôn tạo chiến tranh.

Khoa học: Nói như nhà vật lý học vĩ đại của thế kỷ 20, Albert Einstein, “Phật giáo không những là khoa học mà còn vượt lên trên khoa học nữa.” Thiền, Tịnh, Mật, Tâm lý trị liệu, Thiền và não bộ … đã và đang phát triển như là một trào lưu không thể thiếu của thế giới hiện nay, để đối trị với những khủng hoảng và những căn bệnh thời đại mà khoa học ngày càng cảm thấy bất lực.

Riêng Phật Giáo Việt Nam, trong mấy thập niên qua, có nhiều thành tựu ngoạn mục đầy ấn tượng, nhất là các cơ sở thờ phụng. Nhưng cũng phải thành thật nhận rằng có không ít những vấn đề bất cập.

A. BẤT CẬP

Dưới đây, người viết, chỉ phác họa một vài sự kiện tiêu biểu về mặt tiêu cực để cùng nhau suy ngẫm.

– Nhiều người tự cho mình là Phật tử nhưng ít ăn chay, ít đi chùa, ít học đạo. Số tín hữu nầy thường được gọi là “Phật tử truyền thống”. Nghĩa là cha mẹ đi chùa, con đi theo, nhưng không hiểu hoặc hiểu rất ít Phật lý.

Nguyên nhân có lẻ là thiếu người giảng dạy, và hình như chưa có một cuốn Phật học Phổ thông cho hàng Phật tử sơ cơ nầy, ngoại trừ một số bài giảng qua băng (DVD) hoặc qua mạng điện tử, nhưng nhiều Phật tử sơ cơ không có phương tiện để truy cập. Còn bộ Phật học Phổ thông của HT Thiện Hoa, thì quá cao, quá dày cho Phật tử “truyền thống”. Vì vài lý do đó, có thể, nên Phật tử rất dễ bị chao đảo trước một số tín ngưỡng khác. 

– Nhiều chùa không có ban Tương tế (như các tôn giáo khác) để tín hữu thăm viếng và hỗ trợ nhau lúc vui buồn, mà hầu như mạnh ai nấy sống, thiếu tình đạo. Ngay cả những Phật tử thường đến cúng dường, hộ trì Tam Bảo, nhưng lúc trong gia đình có người bệnh nặng hoặc lâm chung đã nhiều tháng mà vị trú trì chưa hẵn đã biết.

–  Sau những năm tháng chiến tranh, người tử trận, kẻ chết oan, khoa “ngoại cảm” bành trướng, và những “khám phá” về cỏi âm cho thấy con người không phải chết là hết, như quan điểm của vài tôn giáo, mà tất cả phải trôi theo dòng nhân quả luân hồi, nên việc cầu siêu, giải oan bạt độ cũng trở nên một nhu cầu. Từ đó một số Tăng Ni không  đủ thì giờ đi cúng, lấy đâu thì giờ để lo giáo hóa độ sinh. Vài trường hợp lễ cầu siêu và trai đàn chẩng tế quá tốn kém làm thương tổn uy tín của một đạo Phật vì và độ chúng sinh.

B. TÌNH TRẠNG TỆ HƠN QUA THỐNG KÊ SAU ĐÂY

Theo tin học điện tử Wikipedia (2005):

–    Có khoảng “15 ngàn tự viện, tịnh xá, tịnh thất”. Nhưng phần lớn không phải là nơi cho Phật tử tu học và lễ bái mà sử dụng nhiều cho tang, hôn, húy kỵ và là nơi mỗi năm tổ chức ba ngày lễ lớn: Phật đản, Vu lan và Tết. Dĩ nhiên những sinh hoạt nầy rất cần nhưng không phải đủ.

–    Muốn biết tình trạng sinh hoạt rất yếu kém của một số chùa ở Việt Nam ngày nay, chúng ta có thể hình dung được phần nào bằng cách nhìn vào cuốn “Danh Lam Cổ Tự” của cư sĩ Võ Văn Tường. Dĩ nhiên là nhiếp ảnh gia nầy chụp hình chùa không nhằm các ngày lễ nên cảnh tiêu sơ, cô tịch không người, nhưng có lẽ không xa với thực tế bao nhiêu?

–    Có gần 42 triệu tín đồ (cư sỹ), trong đó có ít nhất là hằng triệu cư sỹ trí thức còn trẻ, tuổi ngoài 30. Thành phần nầy là một trong những “tài nguyên” rất quý của Phật Giáo, nhưng chưa được sử dụng đến.

–    Có gần 45 ngàn Tăng Ni. Trong đó, theo thống kê, có khoảng 5 ngàn giảng sư đã được huấn luyện (*). Nhưng trong thực tế, chúng ta không biết có bao nhiêu vị Giảng Sư đã và đang thực hiện nhiệm vụ của mình. Nếu tìm hiểu qua các băng giảng thì số lượng giảng sư “chính quy” không nhiều. Ở đây tin tức của Ban Tôn giáo Chính phủ chưa đề cập đến các vị trú trì có thể diễn giảng và hướng dẫn Phật tử trong chùa tu học như “Thọ bát quan trai, Phật thất, tụng kinh, bái sám…” Và cũng phải kể thêm một số cố vấn giáo hạnh và huynh trưởng GĐPT tự dạy giáo lý cho các em trong đoàn.

–    Nhưng nếu chấp nhận con số giảng sư là 5 ngàn như là một ban ngành chuyên nghiệp của Giáo hội, chúng ta thấy một giảng sư phải săn sóc và giáo hóa đến 8.400 tín đồ (42 triệu chia cho 5 ngàn).

–    Trái lại, Công Giáo Việt Nam (theo Wikipedia, 2005) có khoảng 5.5 triệu tín đồ, 3.100 linh mục,14.400 tu sĩ,1.249 đại chủng sinh và 53.800 giáo lý viên. Tổng cọng là CGVN có  gần 73 ngàn người đã được huấn luyện để truyền đạo. Có nghĩa là một người săn sóc 75 người (5.5 triệu chia cho 73 ngàn). Như thế, không có cách gì con chiên họ bị cải đạo!, giả thiết có sự tác động ấy.

–    Tin Lành Việt Nam (theo Wikipedia) có khoảng 1 triệu tín hữu Kháng Cách thuộc nhiều giáo phái khác nhau rải rác trên toàn quốc, phần lớn tập trung tại miền Nam, trong số đó có nhiều người thuộc các dân tộc thiểu số tại Tây nguyên. Không rõ số lượng mục sư.

–    Thêm vào đó, mỗi tín đồ CG và TL đều có khả năng làm nhiệm vụ tông đồ, nghĩa là họ có thể đi cải đạo tín đồ các tôn giáo khác một cách tự nhiên, năng nổ và không rụt rè.

Trên đây là chưa kể các hoạt động và tài trợ ngầm hoặc công khai của người nước ngoài từ Hàn quốc, Mỹ v.v. cho hai tôn giáo nầy.

Tóm lại, nhìn qua bức tranh, của một đạo Phật Việt, không vui nêu trên, tất cả chúng ta, chư Tăng Ni cũng như Phật tử có nên suy ngẫm, ĐEM ĐẠO VÀO ĐỜI NHƯ THẾ NÀO? Và bị cải đạo là do đâu?

C. ĐEM ĐẠO VÀO ĐỜI

Vài điều bất như ý vừa phác họa cũng đủ thấy, để một đạo Phật vẫn luôn luôn là dòng suối cam lồ tưới tẩm dân tộc qua các thời đại, là bức tường thành kiên cố trong việc dựng nước và giữ nước, vài thí dụ tiêu biểu sau đây nhằm tạo duyên để chúng sinh có thể đến với Phật. Ước mong, trên được chư Tôn Đức Tăng Ni soi xét, dưới chư huynh đệ đồng đạo đồng tình?

•    Trẻ không quên, già không bỏ: Nên chăng? Tự viện, tịnh xá, tịnh thất, trên toàn quốc, ngoài các buổi lễ, còn là nơi để con em bổn đạo đến sinh hoạt dưới các tổ chức như Gia đình Phật tử, Thanh niên, Sinh viện, hướng đạo Phật Giáo v.v…

•     Nên chăng quý vị lớn tuổi cần có ít nhất là vài giờ học giáo lý, tụng kinh, niệm Phật và ngồi thiền mỗi tuần tại ngôi chùa địa phương của mình. Trong thực tế, nhiều chùa hiện nay rất đìu hiu vắng bóng. Có nơi không cho GĐPT sinh hoạt vì cho là ồn ào.

•    Nhà chùa quan tâm đến tuổi trẻ, vì:
–    Tuổi trẻ sẽ kế thừa dòng tộc, tiếp nối giống nòi
–    Tuổi trẻ là tương lai của đất nước và nhân loại
–    Tuổi trẻ cũng là thành phần dễ bị hư hỏng vì chưa đủ trí khôn.

Vì ba ưu tư chính yếu ấy, các bậc phụ huynh thường quan tâm đến con cháu mình, mong sao chúng nên người có đức hạnh và tài năng. Phật giáo là một đáp án tốt đẹp không riêng cho con em phụ huynh mà còn bao gồm tất cả các thành phần khác trong xã hội.

Dưới đây là một số thí dụ tiêu biểu để đạo Phật đi vào đời hoặc để đời dễ tiếp cận với đạo qua một số sinh hoạt cụ thể:

Trẻ sinh hoạt, vẽ tranh, picnic tại chùa:

– Ca múa

– Tập thiền, học thiền

Sư cô Hương Nhũ Giao lưu với Ki-tô giáo

Chùa Đình Quán đa dạng sinh hoạt hướng tới giới trẻ

Cư sĩ Hồng Quang thuyết trình về Thiền

– Trại hè

– Chùa Hoằng Pháp

– Thuyết giảng trong tù…

Tóm lại,

–    Phật giáo được bình chọn là một tôn giáo vĩ đại nhất của nhân loại.

–    Nhưng một số Phật tử bị chao đảo trước một tín ngưỡng mới vì họ không được học những lời dạy căn bản của Phật do thiếu sách giáo khoa và thiếu người hướng dẫn. Còn bị cải đạo qua hôn nhân và vật chất chỉ là hệ quả thiếu kiến thức Phật học và không ai hướng dẫn.

–    Giáo hội có một “gia tài” nhân sự hùng hậu và chất lượng nhưng chưa sử dụng. Đó là do lỗi của tất cả chúng ta.

–    Hệ lụy của vấn đề là, nếu Phật Giáo suy yếu thì dân tộc cũng lâm nguy mà lịch sử đã từng chứng minh..

Đ. GIẢI PHÁP NGĂN NGỪA: THỈNH CẦU GIÁO HỘI NÊN CÓ 6 CHƯƠNG TRÌNH:

1.    Khuyến khích các chùa trên toàn quốc nên có thêm các sinh hoạt cho tuổi trẻ như GĐPT, TTN v.v..

2.    Tu chính và phát hành tài liệu học Phật pháp cho Gia Đình Phật Tử.

3.    Huấn luyện bổ túc tất cả Huynh trưởng GĐPT trên toàn quốc.

4.    Soạn thảo và phát hành tài liệu Phật pháp cho hàng Phật tử sơ cơ.

5.    Nên dạy lịch sử truyền giáo và một số điều luật căn bản của vài tôn giáo có mặt tại Việt Nam. Vì không hiểu mình không hiểu người nên phật tử dễ bị đổi đạo.

6.    Đào luyện hằng ngàn, hàng chục ngàn, hàng trăm rồi hằng triệu “Cư sĩ phụ giảng”.

Mỗi chùa hoặc mỗi địa phương nên giới thiệu hoặc đề cử các Phật tử có kiến thức đời cũng như đạo, nhất là các vị giáo viên, giáo sư đã từng học Phật pháp, từng đứng lớp. Họ đã có khả năng sẵn, chỉ cần được huấn luyện bổ túc một khoảng thời gian rất ngắn và được Giáo Hội cho phép là họ sẽ hướng dẫn tín đồ trong vùng một cách dễ giàng và hiệu quả. Giả thiết lúc đầu chưa có kết quả tốt, nhưng chúng ta vừa làm vừa sửa sai nếu có.

Chúng ta có nên nhanh chóng bắt tay không? Vì đồng hoang, cỏ dại sẽ mọc.

Kính cẩn

Hồng Quang
1.9.2011
_____________________________

(*) Theo ông Nguyễn Văn Long, vụ Phật Giáo, Ban Tôn giáo Chính phủ (web của ban Tôn giáo Chinh phủ) thì “đoàn giảng sư của Giáo hội có rên 1 ngàn vị. “Tính đến thời điểm hiện nay (2011), hoạt động của Ban Hoằng pháp đã mở được trên 20 khoá đào tạo Cao – Trung cấp giảng sư với hàng ngàn giảng sư tốt nghiệp”.