Trang chủ Văn học Bảy mươi năm với Bụt

Bảy mươi năm với Bụt

Chuyện trò thủ thỉ, rồi cười khúc khích, hai mẹ con lại hát nho nhỏ, ríu ra ríu rít như đôi chim vầy tổ, ướt cánh. Giọng của nội lạc lõng trong cơn gió bấc lọt qua khe vách ván. Năm ấy nội tôi chín mươi bảy tuổi. Nội như cây sậy, cây bông lau trắng dịu dàng trong hơi bấc đêm đông.

Quấn chặt tấm mền, tôi ngủ thiếp đi trong tiếng hát của bà. Sáng ra, cô Hai Quyền thức dậy sớm. Cô đi lấy khăn nước nóng lau mặt cho nội. Nhưng nội không còn thức dậy nữa! Nội tôi đã ra đi có lẽ sau khi nội lần chuỗi, niệm Bụt lúc nửa đêm, nhẹ nhàng như chiếc lá vàng rơi trong cơn gió heo may cuối mùa.

Năm hai mươi bảy tuổi, sau đám tang ông nội, bà nội tôi vào chùa quy -y. Chùa Chúc Thánh nằm ven thành phố cổ. Phải đi qua vùng cát trắng, những khu mộ đá vôi, những bụi xương rồng còi cọc, mùa xuân trổ bông đỏ, trắng đơn sơ như những chấm phá trên bức tranh thủy mạc. Chùa được xây cất hơn bốn trăm năm về trước, mà thầy trụ trì nói chùa Chúc Thánh là ngôi chùa đầu tiên ở xứ Đàng Trong, với những tượng Phật lớn thờ ở chánh điện, vẫn còn cho đến ngày nay. Hơn hai thế hệ trôi qua, con cháu gia đình tôi đều theo bà nội quy -y ở ngôi chùa nầy. Nơi đó là chỗ dựa tinh thần, nguồn an lạc mà chúng tôi đã thừa hưởng ân đức của Bụt.Nội tôi không biết chữ, có lẽ không ai tin. Một góa phụ quá trẻ sống trong một thành phố nhỏ như bàn tay, mà người ta nói :” Thượng chùa Cầu, hạ am Bồn”, chiều dài của thành phố, ngày ấy, chưa đầy một cây số rưỡi .Chiều ngang từ bờ sông Hoài vô tới nhà thờ Chúa cũng chừng ấy mà tấp nập kẻ bán người mua. Hèn chi người ta gọi: phố Hội An.

Tại căn phố nhỏ nằm trên đường Hội An, (ngày nay là đường Lê Lợi) nội tôi buôn bán đồ gốm Thanh Hà và những bộ lư đồng Phước Kiều, nuôi ba người con ăn học. Chữ và nghĩa của nội tôi là một bình vôi, với cây cọ tre làm bút. Nội ghi chép tiền bạc, nợ nần của khách hàng theo cách riêng của bà trên tường, trên những cây cột gỗ bằng cây cọ tre và vôi trắng.

Công việc làm ăn mỗi ngày nở ra, nội tôi mua thêm một căn phố lớn cuối đường Quảng Đông (đường Nguyễn Thái Học bây giờ) của người Triều Châu gần chợ Hội An, cũng trong thời gian này má tôi về làm dâu bà, cùng lúc việc buôn bán cũng theo đà phát triển của một thành phố đang được mở rộng.

Thuở tôi lớn lên thì nội đã về  “hưu” rất sớm, vì có má tôi thay bà lo công việc buôn bán và gia đình. Nội bảo: “Hồi còn bán đồ gốm và đồ đồng trên phố Hội An, những lúc rảnh rỗi nội thường lần chuỗi”. Thầy trụ trì đã cho nội một xâu chuỗi mười tám hạt mà và dạy bà niệm Phật. Bà nói, chưa bao giờ  bà đọc kinh kệ gì cả. Điều ấy dễ hiểu vì nội có được chữ nào bỏ bụng đâu. Với Bụt, nội chỉ có một câu niệm “Nam mô A Di Đà Phật!”, niệm riết rồi cũng đến chỗ nhứt tâm. Nội đi chùa cúng Bụt với bó hoa huệ trắng và đĩa trái cây vào những ngày rằm, mùng một hằng tháng. Sau nầy, nội về ở nơi hậu liêu của nhà thờ tộc trong kiệt Sica yên tĩnh, trước đình tiền hoa kiểng quanh năm xanh tốt. Góc trái nhà thờ bóng cây ngọc lan che mát gần nửa sân gạch, hương hoa thơm ngát, nhất là vào tháng Tư âm lịch, mùa Phật Đản hoa càng nở rộ. Cứ mỗi sáng sớm, nội hái ba, bốn búp ngọc lan, trắng muốt như ngón tay ngà, để vào chiếc đĩa sứ nhỏ, trịnh trọng đặt trên bàn thờ Bụt, thắp ba cây nhang trầm, rồi khấn lâm râm điều chi đó… Mỗi lần như thế, tôi cảm thấy chừng như có nguồn an lạc từ tâm hồn nội lan tỏa trong ngôi nhà thờ tự. Gia đình tôi, ai cũng đi theo con đường tâm linh mà nội đã chọn. Theo Bụt. Tuy thế, tôi thấy hình như mỗi người có một cách hành xử khác nhau trong đức tin của mình đối với Bụt. Có lẽ tùy duyên nghiệp, tùy căn cơ của mỗi người mà thức ngộ đối với chân lý của Ngài. Năm Bảo Đại thứ hai lăm, nội tôi được nhà vua phong ” tiết hạnh danh văn”. Bốn chữ Hán thếp vàng trên tấm biển màu đen treo ở giữa gian hậu liêu như một biểu tượng vinh dự cho gia tộc Trương. Thời ấy, chuyện “tam tòng tứ đức” là thước đo của người phụ nữ, và cũng để đánh giá gia phong của một gia tộc trong xã hội mang nặng tính Nho giáo. Khi người chồng qua đời, người vợ phải biết ép mình trong cuộc sống để thờ chồng, nuôi con. Nội tôi đã chở thành một ngừi phụ nữ như thế lúc bà mới hai mươi bảy tuổi. Cha tôi là con thứ ba cũng là con trai duy nhất của nội. Thuở nhỏ ông theo nội di chùa, nhưng rồi chuyện đi chùa  theo Bụt của cha cũng phai dần theo tuổi đời và nhịp sống xô bồ của xã hội ngày ấy. Người ta nói con một cháu bầy. Y như rứa. Cha tôi có tất cả ba mươi bốn người con với hai người vợ. Chẳng mấy chốc, gia đình tôi trở thành một đại gia đình trong một thành phố tỉnh lẻ nầy. Bốn mươi mấy tuổi, nội tôi lúc nào cũng đầu tròn áo vuông, luôn chỉnh tề, nghiêm túc như một Thái thượng hoàng thái hậu đối với dòng họ cũng như đám cháu sẵn sàng nghịch ngợm, nô đùa…

Suốt trong những thập niên 50 … về sau, Hội An cũng chịu tác động của hai cuộc kháng chiến . Kinh tế không phát triển, đời sống xã hội co cụm lại. Con đường Bạch Đằng đã trải qua những tháng ngày đổi thay, thăng trầm theo nhịp độ của ghe thuyền buôn bán từ các nơi đi về trao đổi hàng hóa. Ngày nay, dọc theo bờ sông Hội An, du thuyền đưa đón khách Tây, khách Tàu tấp nập. Cuộc sống đã chuyển mình vươn đến đỉnh cao của thời đại, của du lịch, của hội nhập. Buổi sáng mùa xuân, lang thang trên con đường Bạch Đằng, ngọn bấc cuối đông còn sót lại vương vất trên những cành cây xanh lá, một chút xe lạnh đầu xuân gợi nhớ… Tiếng rao “mì… tôm , sứa đ…â…y” trên chiếc xuồng nào đó ven bờ, đưa tôi về một thời xa xôi mà bến sông này tấp lập thuyền buồn, những chiếc xuồng nhỏ bán mỳ Quảng trên sông như chợ nổi. Cuộc sống ở phố thị nầy lúc nào và ở đâu cũng gần gũi thân thương. Bởi phố cổ hệt ngôi làng. Làng Minh Hương, Ngũ Bang của người Hoa kiều quây quần trong những con đường phố chính và dân bản địa từ các vùng ven tập trung về cư ngụ. Cho nên  Hội An có một nền văn hóa đa dạng (Việt, Chăm, Hoa, Nhật…) đã hình thành hơn bốn trăm năm qua.

Tiếng rao hàng, tiếng guốc kéo lê trên hè phố, tiếng mưa rơi trên mái ngói âm dương, một vầng trăng rơi trên phố khuya, vạt nắng chiều vương nhớ trên mái chùa cong… tất cả là hồn của phố, của một Hội An xưa và nay, đi thì nhớ ở thì thương. Hễ chạm vào nơi nào đó trong tâm hồn cũng thấy một Hội An thực tại, một Hội An quá khứ tràn ngập nhớ nhung.

Nội tôi ra đi đã hai tám năm rồi. Cha mẹ tôi cũng về nơi xa xôi ấy…Tất cả chỉ là dĩ vãng êm đềm như một giấc ngủ say. Hôm mùng hai Tết, tôi về chùa Chúc Thánh cúng Bụt, thắp nén nhang cho thầy trụ trì và mộ nội tôi, mộ cha mẹ tôi cũng nằm phía sau vườn chùa cỏ hoa bát ngát.